Lần "đáo xứ cố hương"
vừa rồi, tôi có theo bà vợ Ninh-Hòa đến thăm
ngôi trường Trần Bình Trọng, để tìm lại
chút kỉ niệm xưa, mà bà cho là dễ thương nhất trong đời
một người con gái, cho dù đến bây giờ tất cả
chỉ là như khói như sương mà sao cứ mãi còn đọng
lại ở đâu đó trong hồn nàng. Ngôi trường đã thay
tên từ cái thuở thiên hạ đổi đời, sau cái ngày
hai miền thống nhất để "miền Chúng tôi đến vào đúng lúc tan trường.
Nhìn các em học trò từng nhóm bước ra khỏi
cổng mà lòng dạ cứ bồi hồi, nhớ da
diết một thời xa xưa cũ. Những em học sinh
bây giờ dường như có ít nhiều khác với bọn chúng
tôi xưa. Đặc biệt trong đám nữ sinh, có thiếu đi cái điều
gì đó. Mãi đến khi về nhà, ngồi bàn bạc lại
chuyện xưa- nay, chúng tôi mới khám phá ra cái điều thiếu
vắng ấy chính là: Cái Nón Lá. Không hiểu từ lúc nào, Cái Nón Lá đã biến mất
trong những cô học trò, những cô con gái dễ
thương ở quê tôi. Cái Nón Lá với những chiếc quai hồng,
quai đỏ, quai tím, quai xanh,... đã một thời làm khổ
biết bao nhiêu thằng con trai và cũng đã từng làm
giàu thêm cho kho tàng văn chương thi phú. Bây giờ làm sao tìm lại
được cái cảnh "nghiêng nghiêng vành nón che làn tóc.. ",
" mùa hè Ninh Hòa nắng mờ con mắt, tôi đứng
nhìn em đội nón qua cầu " và tôi không hiểu nếu
" Ninh Hòa, những ngày trời trở gió "
thì các nàng sẽ lấy cái gì để che...cái áo. Hèn
gì ông nhà thơ Lê Hân ở tận bên Cặp ôm che.. ngực xuân
thì Em đi hoa cỏ thầm thì
trông theo Áo dài tay đỡ vòng eo Hai bên hông hở thơ trèo vào thăm Tôi dám chắc như đinh đóng cột là chàng trai Ninh Hòa
đa tình nào trạc tuổi tôi ngày ấy, cũng đã
từng có thời chạy theo hoặc chết lên chết
xuống vì những cái quai nón hồng, đỏ, tím,
xanh...buớc ra từ các cổng trường Trần
Bình Trọng, Bán Công, Đức Linh.. hay xa hơn nữa là
Võ Tánh, Huyền Trân, Lê Quí Đôn, Tương Lai, Kim Yến.. ở
Nha Trang. Nhưng đẹp và dễ thương hơn vẫn là những mối
tình học trò trường huyện. Ngày đó, có nhiều
chàng (và nàng) thuộc lòng bài thơ..khi không có nón.. của
ông Nguyễn Bính. Nhiều cô cậu đã nắn nót chép
bài thơ "Bươm Bướm Ngày Xưa" dấu kỹ trong ngăn cặp
táp..và cả trong ngăn nào đó của trái tim mới bắt đầu
đập..lạc nhịp của mình. Bây giờ, nếu
có dịp trở lại Ninh Hòa, đứng trước cổng
ngôi trường cũ, chắc chắn từ một nơi thật
sâu trong ký ức, bài thơ xưa sẽ " đột xuất"trở
về: Học trò trường huyện ngày xưa ấy Em tuổi bằng anh, lớp tuổi thơ Những buổi học về không có nón Đội đầu chung một lá sen tơ Lá sen vương phấn hương sen ngát Ấp ủ hai ta chút nhụy hờ Lũ bướm tưởng hoa cài mái tóc Theo về tận cổng mới tan mơ Em đi phố huyện tiêu điều lắm Trường huyện giờ xây kiểu khác rồi Mà đến hôm nay anh mới nhớ Tình anh như chuyện bướm xưa thôi... Cuộc đời vốn đã là những hố bờ
ngăn cách. Vậy mà chiến tranh (và đau đớn thay cả đến
lúc có hòa bình nữa) thì cái thế hệ của
những " ngày xưa thân ái " đó lại chia lìa tứ
tán. Kẻ chân mây người góc bể. Kẻ ở người
đi ai cũng ..đoạn trường. Vậy mà trong trời đất
bao la lại có những con đường chạy theo kiểu
vòng tròn khép kín, để bao nhiêu năm sau, ở một
thành phố có cái tên lạ hoắc nào đo trên xứ người,
nhiều chàng bất ngờ "đụng đầu" tái ngộ
với "cái quai nón" ngày xưa, hoặc đã từng đội
chung "lá sen tơ" của một ngày nàng quên mang theo nón
lá. Tôi đã từng nghe được khá nhiều tâm sự của
các chàng Ninh Hòa, bây giờ tóc đã hoa râm: Nửa đời mới gặp lại
nhau Ngước nhìn mái tóc ngả
màu thời gian Cái ngày cùng học trường làng Chép thơ Nguyễn Bính gởi sang
cho mình Đêm nằm nhớ nụ cười
xinh Lá sen tơ ấy chúng mình cầm
tay Thế mà nay.. đau lòng thay Cái con bướm trắng đã
bay xa rồi Mỗi người ở một
phương trời Vẫn không quên được cái thời
xưa xa Cho dù nay đã ông bà Lá sen tơ ấy vẫn là sen tơ Ước gì trở lại tuổi
thơ Để... cùng đội lá sen tơ với
mình.. Riêng tôi, một thằng lính lang thang dọc đường số
1, vậy mà trời xui đất khiến thế nào cũng
đã từng lỡ dại yêu một cái quai nón tím
Ninh-Hòa. Ngày ấy mỗi lần lái xe qua trường Trần
Bình Trọng mà không tìm ra cái quai nón tím là tôi buồn
đến..tím gan tím ruột. Mà cũng lạ, trường Trần
Bình Trọng ngày ấy có biết bao quai nón đủ màu,
đủ sắc, cớ sao tôi lại phải lòng cái quai
màu tím. Hay tại tôi là lính chiến, nên cứ tưởng cái
quai nón màu tím là.. "rừng tím hoa sim, tím những chiều
hoang biền biệt". May quá, có một nhà thơ gốc
Khánh Hòa viết giùm tôi cái "thiên tình sử
"đó: O con gái tóc dài - quai nón tím Chiều ni về - O có nhớ ai
không Guốc khua chi - cho đây nhói cả
lòng Áo trắng quá - khiến hồn
đây khờ khạo O cười duyên - khoe dăm ba hạt
gạo Cho đây vay một hạt - để
no lòng Sợ nửa khuya về bên ngọn
đèn chong O dẫm lấm những tờ
thư đây viết Cứ nguýt háy đi - cứ lườm
cứ liếc... Miễn O đừng biền biệt
tháng năm xanh Miễn sáng - trưa - chiều O cứ
quẩn quanh Sau cửa lớp - ngập ngừng
như bụi phấn Ngày hai buổi tan trường ngang
mấy bận Đứng bên đường đây cứ
mãi ngó mong Quai nón tím ơi - khói thuốc thả
vòng Không dám gọi - dù chỉ lời
thăm hỏi O cứ đi qua - chẳng chờ -
chẳng đợi Chẳng đoái hoài đến một
gã khờ si Những ngả đường cũng
năm bảy lối đi Sao lòng đây chỉ O quai nón
tím...! (Phan Thị Ngôn Ngữ) Nhưng mà tội nghiệp cho cô nàng
có quai nón tím, bởi "đời một
người con gái - ước mơ rất nhiều song trời cho
không được mấy- đến khi đi lấy chồng chỉ
còn một mối tình mang theo", mà khốn
khổ thay thằng chồng ấy lại chính là tôi. Bởi
vì sau đó nàng đành phải bỏ cái quai nón tím để khốn
khổ mà làm vợ..lính. Và từ ngày thằng lính ấy
chui vô cái " trại cải tạo khoan hồng" của
người anh em, thì cho dù nàng có mở mắt hay nhắm
mắt gì thì cũng chỉ thấy có một...
chân trời tím ngắt. Câu ca dao quen thuộc ở cái xứ
thơ Ninh Hòa "Trời mưa
thì mặc trời mưa, tôi không có..nón trời chừa
tôi ra "đã không còn linh ứng với
riêng nàng. Trong những người vợ lính ở cái xứ
Ninh-Hòa hiền khô, trời đã không chừa nàng ra,
nên phải làm thân con cò lặn lội bờ sông.. với
đủ thứ trăm cay nghìn đắng. Nhưng cuối cùng
" người hại người, chứ ông Trời lại
thương người vô tội ", nên bây giờ những cái quai
nón.. ấy lại trở thành những "khúc ruột ngàn
dặm của quê hương" nơi có "chùm khế ngọt, mà
em... không được quyền trèo hái bao giờ" !! Tưởng đâu chạy sang xứ người
ta làm Việt kiều yêu...tự do, là thoát được bao điều
hệ lụy bởi ông chồng gốc lính. Nào ngờ cái
ông chồng ấy bây giờ cũng vẫn vô tích sự. Mấy
lần nhớ con gái ở xa, nàng định khăn gói một
mình sang thăm, nhưng thấy tội nghiệp ông chồng,
nên đành phải trả vé máy bay. Nàng đã oán trách lầm
Kách Mệnh. Nàng bảo là hơn tám năm cải tạo mà ông chồng
vẫn không chịu tiến bộ. Kách Mệnh dạy:
" Có sức người thì sỏi đá cũng thành
cơm", còn khổ thay ông chồng tôi thì "gạo
đổ vô nồi (điện) rồi mà vẫn không chín nổi
thành cơm". Nhưng có một Chiếc Nón Lá khác,
quai không màu không sắc, lại làm tôi xúc động mỗi lần
nhớ tới. Năm 1976, tôi bị chuyển tù từ Một hôm bọn tù tôi đuợc đi
lao động để tìm "vinh quang", nhưng trời
nóng quá, nên cứ đi vài chục mét thì tất cả tự
động chui vào mấy bụi cây ven đường. Đám tù có nhiệm
vụ san mặt bằng trên một cái đồi trọc để
chính quyền đưa dân dưới thấp lên, vừa "ổn định"
đời sống vừa làm một cứ điểm chống
quân "bành trướng Bắc Kinh". Trời nóng hơn lửa
đốt, mà cái đồi thì không còn một bóng cây, nên
đám tù bọn tôi chỉ còn có "trời đội đầu,
chân đạp đất" như ông Từ Hải của nàng Kiều. May mắn là tôi vừa qua một
cơn kiết lỵ, nên đuợc phân công nấu nước cho anh
em. Phải xuống duới chân đồi mới có nước.
"Đồng chí" quản giáo "đe" trước là phía
dưới có khu nông trường mà đa số là đàn bà con gái. Chớ
có bén mãn tới để "quan hệ" với nhân
dân chân chính là bị cùm trong hầm núi. Tôi vốn nhát gan nên
rất sợ mấy cái hầm tối trong hốc núi. Một
lần có nhiệm vụ mang xác người bạn tù bị chết
trong hầm núi ra, tôi mới biết cái địa ngục có thật
này. Là một cái hang được moi ra từ chân núi đá, vừa đủ
chỗ cho một thân người nằm. Khi kéo xác anh bạn
tù ra, bọn tôi lạnh toát cả người. Không phải
vì sợ thây ma, (vì chính những thằng tù
còn sống cũng có khác cái thây ma là bao), nhưng vì bọn
tôi nhìn thấy mấy con rắn, không biết có tội
tình gì với Kách Mệnh mà đã tự giác chui
vào để cùng "học tập cải tạo" với
mấy anh tù khốn khổ nhất trên hành tinh này! Trong lúc nấu nước, vừa cái nóng của trời,
cái nóng trong gió lào thổi tới, cộng với cái nóng của
lửa bốc lên, tôi bị choáng váng vì say nóng, bèn chui
đại vào một lùm cây "cứt chồn" nằm. Chợp
mắt vài phút, nghe có tiếng sột soạt, tôi giật
mình tỉnh giấc. Ngồi dậy định chui ra
thì bất ngờ thấy phía trước mặt có cái Nón
Lá. Tôi dụi mắt tưởng nằm mơ, chứ tôi đâu có cây
đèn thần để đọc ra ba điều ước bao giờ. Lúc
này mà có cái Nón Lá, còn hơn cả mấy vị "cứu
tinh của dân tộc", nhưng nghĩ đến mấy con rắn
trong cái hầm núi là tôi đành "bỏ của chạy lấy
người". Nhìn Chiếc Nón Lá nằm trong gang tấc
mà với tôi sao xa thật ngàn trùng. Vừa bước đi, tôi
nghe từ một bụi cây trước mặt, tiếng thỏ
thẻ như chim: - "Anh gì ơi ! Anh gì ơi !
Tôi cho anh chiếc nón, trong đó có mấy củ khoai luộc,
anh cứ khẩn trương cầm lấy. Tôi đã cảnh
giác kỹ rồi, chẳng có ai phát hiện đâu. Bỗng dưng tôi trở thành một
thằng tù vừa được no lại vừa lãng mạn:
Thằng tù có nón ! Sau này khi được chuyển vào Ở miền Bắc, người ta
xem thường con gái nông trường nên ví von " con gái nông trường
như chiếc giường bệnh viện". Sau này, mỗi lần
nghe ai nhắc tới câu nói đó, tôi cảm thấy như chính
mình bị xúc phạm. Tôi chỉ nghe tiếng nói, nhưng
chưa thấy mặt người con gái ấy bao giờ. Nhưng Chiếc
Nón Lá với cái quai chỉ bằng một sợi giây, có cái
màu ướt đẫm mồ hôi, tôi không bao giờ quên. Cầu
mong cho người con gái nông trường Thanh Chương ngày đó, giờ
đây được sống yên lành, không phải bán mình sang Đài
Loan, Hàn Quốc để nuôi cả một gia đình khốn
khó. Hôm rời Việt Tôi nhớ tới cái cảnh mấy ông nghị viên,
dân biểu bên Mỹ, bên Tây trong những mùa tranh cử ở
những vùng có nhiều cử tri gốc Việt, thường
mặc áo dài, có khi đội cả khăn đống.. để vận
động kiếm phiếu. Không biết bà con thì sao, có
vui vì thấy thiên hạ "yêu" văn hóa ta hay không,
chứ riêng một thằng có thói xấu bảo thủ như
tôi thì không thấy đẹp chút nào mà còn hơi ngượng..
vì có cảm giác chiếc áo dài, khăn đống của
mình bị người ta.. lợi dụng. Về tới Nauy, tôi đem câu chuyện
Cái Nón Lá bây giờ tự dưng biến mất ở các cổng
trường.. bên quê nhà, kể cho mấy ông bạn già như là
"món quà của một kẻ đi xa về",
thì lại nghe thêm được một chuyện buồn cũng
về cái Nón: Có một ông già Việt kiều gốc
nhà quê yêu nước, được con cháu bảo lãnh sang đoàn tụ.
Sống trên cái xứ Bắc Âu nhỏ bé nhưng vốn có đời
sống cao hàng nhất nhì trên trái đất, ông già được
nuôi nấng kỹ quá, bơ sửa thừa mứa, mỗi năm
lại được cấp tiền đi du lịch vòng
vòng, nên đâm ra.. rững mở nhờ thần dược
Viagra. Ông về Việt Nam liên tục, hết
nói cất nhà từ đường, rồi xây mộ gia tộc. Hết
chuyện tư ông lại mở tấm lòng bác ái.. làm chuyện
công: xây đình xây miểu chưa xong lại sửa sang trường
học,, giúp viện mồ côi..Kỳ thực thì ông
đem tiền về xây nhà giữ trẻ, mà chỉ nuôi có mỗi
một em. Đó chính là.. cô bồ nhí, tuổi đáng cháu nội của
ông. Khốn thay cho những tên Việt kiều già mất nết.
Cái tin này đến tai bà vợ già.. vốn mê đọc truyện
Kiều nên có máu Hoạn Thư.. Bà huy động một đám con dâu,
con gái đã từng có nhiều huy chuơng trong những cuộc
chiến đánh ghen, cùng về Việt Không ngờ bà vợ lại có tài
"tình báo" còn hơn cả đám CIA của Mỹ
chống khủng bố al Qaeda, nên nhất cử nhất động
gì của ông chồng già.. dịch bà đều "nắm
bắt" kịp thời ! Bà kéo đám quân thiện chiến về
đúng vào mùa hè đỏ lửa. Ông chồng biết bà vợ rất
sợ ông Trịnh Công Sơn xúi người ta " Gọi Nắng…",
bèn mang Cái Nón Lá vào tận phi trưòng đón nữ tướng
quân. Khi bà vợ vừa bước ra khỏi phi trường, ông
chạy tới xum xoe, đưa Cái Nón lên âu yếm che đầu bà. Bà
vung tay giật ngay Cái Nón vất xuống đất đạp tan
tành. "Thừa thắng xông lên" bà cắt mái tóc mới
nhuộm của ông già, rồi định cắt thêm...một
cái gì nữa đó. Cả phi trường náo lọan, công an bảo
vệ phải xông vào cứu ông già thoát nạn, trước sư
hò reo của tất cả mọi người vừa chứng
kiến một tấn tuồng hay.. Tôi nghĩ, nếu lỡ xui, hôm ấy
có tôi, chắc tôi không thể nào mở miệng ra cười
đuợc, mà có khi tôi còn khóc. Không chỉ khóc vì trong
đám Việt kiều, có những gã già mất nết, mà
khóc vì đau lòng và tội nghiệp cho.. cái Nón Lá.
Vì nó có tội tình gì ? Trong lúc ở quê nhà, cùng "tiến nhanh tiến mạnh
" lên một nền "kinh tế thị trườøng theo
định hướng xã hội chủ nghĩa", các em nữ
sinh, các cô con gái dần dần bỏ rơi Cái Nón Lá, thì một
ông già vừa mới xa quê mấy năm, vốn coi trọng
truyền thống cha ông, lại sớm bán linh hồn cho quỷ,
và dùng Cái Nón Lá vào một việc "cực kỳ" kém
văn hóa. Thử hỏi một thằng gốc nhà quê như tôi
làm sao mà không buồn cho được. Viết tới đây tự dưng tôi
liên tường tới một điều, mà cứ mỗi lần
nghĩ tới là lòng thấy nhói đau. Nói theo kiểu mấy
ông nhà văn thì "dường như đang có những nhát chém hư
vô" nào đó ở trong lòng. Cũng kể từ lúc những nữ
sinh, những cô con gái Việt Nam dần dần bỏ rơi
cái Nón Lá, thì cũng là lúc số phận của những
người phụ nữ một thời " anh hùng bất
khuất trung hậu đảm đang" vốn là con cháu của
các "chị ba dũng sĩ quê ở Trà Vinh, chị hai
năm tấn quê ở Thái Bình"đi đến chổ cùng tận
của nỗi...thê lương. Trong lịch sử dân tộc ta,
dường như chưa có thời kỳ nào mà số phận của
nhiều người con gái, phụ nữ Việt Hơn một trăm ngàn ( xin nhắc lại:
một trăm ngàn) các cô gái, mà trong đó có hơn 60% các em ở tuổi
vị thành niên đã phải sang Campuchia và Thái Lan làm gái điếm.
Hơn sáu chục ngàn cô gái bị lừa (và bị bán) sang Đài
Loan, Hàn Quốc, nói là để làm vợ, nhưng thực ra chỉ
làm nô lệ và nô lệ tình dục cho bọn lưu manh. Một
số đông bị hiếp tập thể hay hiếp luân phiên
bởi những gã đàn ông bệnh hoạn trong một đại
gia đình, vốn cũng chẳng khấm khá gì. Rồi
sau khi tả tơi, bị bán rẻ lại cho những ổ mại
dâm mạt hạng. Oái ăm và đau đớn thay, bọn đàn ông khốn
kiếp này lại là đám con cháu của " bọn phản
động Tưởng Giới Thạch và bọn Pác Chung Hy từng
sang Việt Chưa bao giờ người con gái Việt nam lại đem bày
hàng rao bán ở bên Trong nước, thì từ thành
phô, đến thôn quê, từ vùng xuôi đến "vùng sâu vùng
xa", nơi nào cũng dẫy đầy gái điếm ! Điếm bây
giờ có đủ hạng bậc, chẳng khác gì một
đội quân gái với đầy đủ các cấp quân hàm: từ
ca sĩ, diễn viên điện ảnh, người mẫu, hoa
khôi, á hậu,,đến những cô sinh viên, đang còn theo học
hoặc vừa mới ra trường. Bi thảm và thương tâm nhất
là các em gái học trò nghèo, tuổi mới mười ba,
mười bốn cũng phải bán dâm. Mà khốn nạn thay
những kẻ mua dâm lại là những ông thầy và đám
quan lại quyền thế của triều đình. Từ vụ ông tiến sĩ TCP/TCTDTT Lương quốc Dũng
hiếp dâm một bé gái 13, đến ông TGĐ PMU18 Bùi tiến Dũng,
cứ mỗi lần cùng bọn tham quan đánh bạc là có các
cô xinh đẹp trần truồng ngồi sẵn một bên để
các ngài xả xui ngay tại chỗ. Rồi đến ngài thứ
trưởng Nguyễn Việt Tiến rửa ghế với mấy
cô người mẫu trần truồng ngồi trong những
chậu sứ, rượu ngoại được thay nhau đổ từ
trên đầu xuống khắp châu thân, chảy qua đủ
ngõ ngách của các nàng kiều nữ, để đám nịnh
thần cụng ly chúc mừng quan lớn ! Mới nghe, tôi cứ
mơ hồ như chuyện chỉ có trong phim tàu của cái thời
có nhiều bạo chúa. Mới đây, hơn mười em học
trò nghèo, tuổi mới 14, 15 ở cái huyện
Hòa An hẻo lánh trên tận Cao Bằng heo hút gió mưa bị
ép bán dâm cho một ông thầy đang làm quan trong Sở Giáo Dục
và Đào Tạo tỉnh. Rồi một ngài Trung tá Phó Trưởng
Công An Thị Xã Cao Bằng cưởng bức mua dâm một
em gái mồ côi tại Trung Tâm Bảo Trợ Xã Hội
Tỉnh Cao Bằng chưa đến tuổi 15. Hèn gì một cô nghệ sĩ
ưu tú Hát Chèo, bộ môn văn hóa cổ truyền đang được cổ
võ hồi sinh, lại bỏ chèo để làm "má
mì" chuyên cung cấp những cô gái loại "hàng
xịn".ø Một cô sinh viên của một trường đại
học danh giá ngay giữa lòng thủ đô, " Hà Nội..
niềm tin yêu và hy vọng của núi sông hôm nay và mai
sau", lại trở thành tú bà, chuyên cung cấp nữ sinh
viên cho các ngài đại gia mà phần lớn là đám hoạn quan
lớn bé của triều đình thời mở cửa.
Trong khi ấy thì các quan lớn dùng tiền nhà nước
đánh bạc, cá độâ cả tiền tỷ, cả đến gần
ba triêu đô la! Đã vậy các qúy tử, công nương dốt nát
của quí ngài còn được đi du học "ăn chơi "
đó đây bằng tiền của E Việt Nam Giao Chỉ ! ( Tôi cũng xin nói rõ: tất
cả những tin tức này đã được đăng tải công
khai trên các báo Công An, Thanh Niên, Tuổi Trẻ của nhà nước,
chứ không phải từ những tên phản động, hoặc
những phần tử " diển biến hòa
bình" nào đâu nhé ). Trong một bài thơ khá dài và thật
cảm động gởi cho một em bé nghèo phải sang bán mình
cho các nhà chứa ở Lịch
sử Việt Vinh nhục thăng trầm bao nhiêu bận Nhưng chưa bao giờ đen tối như hôm nay Ông cha ta có khi phải xuống biển tìm ngọc
trai Lên non tìm ngà voi trầm hương châu báu Có những lúc cả dòng sông thắm máu Có nhiều khi xương trắng gởi rừng sâu Nhưng chưa một lần trong bốn ngàn năm Có những cô gái Việt nam Phải sang xứ người bán thân nuôi miệng Tủi nhục này không bao giờ rửa sạch Nỗi đau này không phải của riêng em Mà của mọi người còn một chút lương
tâm Và còn biết như thế nào là quốc nhục ..........(x) Trách nhiệm này xin hỏi thuôc về
ai ? Câu trả lời thuộc quyền "sở hữu
trí tuệ" của các bạn. Tuy nhiên nếu có bạn
nào bảo trách nhiệm này thuộc về Nhà Nước là tôi
cực lực phản đối. Bởi cái thằng vốn "duy
tâm biện chứng" tôi xin lý luận một cách rất
"lô gíc" theo kiểu tam đoạn luận như sau: Đây
nhất định không phải là trách nhiệm của nhà nước
( hay là chính quyền ), mà đích thực là của nhân dân.
Vì trong xã hội xhcn, nhà nước chỉ quản
lý, chính quyền chỉ là"công bộc", còn
nhân dân mới làm chu û( chắc các bạn ai cũng cũng
thấy ở Việt Nam ta, trừ duy nhất cái Kho Bạc
Nhà Nước, còn tất tần tật cái gì cũng
của nhân dân: Chính quyền Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Công
An Nhân Dân, Tòa Aùn Nhân Dân,.....) mà đã là làm chủ ( nhất
là làm chủ tập thể) là đích thị trách nhiệâm phải
thuộc về nhân dân rồi. Tôi xin đề nghị là: đưa
nhân dân ra Tòa án Nhân Dân xét xử. Và nếu tôi vinh dự
được làm bồi thẩm Nhân Dân (lại..nhân dân), tôi xin các
đồng chí nhân dân nhất trí:- -
chiếu theo điều 1/HV của bộ luật dân sự thời
vua Hùng dựng nước -
thi hành lời di chúc của cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ -
xét rằng, Chiếc Nón Lá là biểu tương cho phụ nữ
Việt -
xét rằng Chiếc Nón Lá là chứng tích của bao cuộc
tình học trò dưới cành hoa phượng đỏ -
xét rằng Chiếc Nón Lá đã góp phần làm giàu cho thi ca
và làm đẹp cho quê hương có bốn ngàn năm văn hiến -
xét rằng Chiếc Nón Lá đang có thành tích trong kế hoạch
kinh tế vĩ mô: góp sức to lớn cho ngành Du Lịch nước
nhà. -
Xét rằng chính các cô gái Việt nam đã phản bội,
dần dần bỏ rơi Chiếc Nón Lá, nên đã đưa người
con gái nước ta vào bao cảnh lầm than, khốn khổ,
đoạn trường như hiện nay. - Đề
nghị hình thức kỷ luật: - Em
nữ sinh nào bỏ Nón Lá, khi vào phòng thi sẽ không được
mua trước đề thi như ở Hà Tây và Cai Lậy (Tiền
Giang), nơi có đến 536 bài thi giống nhau như đúc! -
Người đẹp nào bỏ Nón Lá sẽ không được mua chỗ
vào học tiếp viên hàng không Giao Chỉ với giá rẻ
20.000 đô la Mỹ. - Bà
nào bỏ Nón Lá, sẽ không được làm bồ nhí cho các ông
quan trong Pờ Mu 18. Dù sao, tôi cũng xin cám ơn Cái Nón Lá, đã cho thế hệ
chúng tôi thật nhiều kỷ niệm, để mỗi lần
hồi tưởng về một quá khứ xa xăm, lại thấy
trong lòng lâng lâng nỗi nhớ. Không chỉ nhớù Cái
Nón Lá có quai hồng, quai tím... hay mấy mối tình học
trò vụng dại, mà nhớ một thời mà cả...đất
trời và ai nấy cũng dễ thương. Thôi thì, xin mượn
đỡ mấy câu thơ của ông Khoa Hữu mà thay cho lời tạ
từ cùng cái Nón Lá ngàn đời yêu dấu: Trăm năm hạt cát vô cùng
Bắc Âu, một
ngày không có đêm. |