"Thằng
đi mất biệt !"
·
5.01.2008
Sáng nào, nếu trời không mưa, bà Hai cũng vắt cái
khăn rằn lên vai, chụp cái nón lá đã tưa vành lên
đầu, xách giỏ trầu đi ra phía vàm rạch trèo
lên mô đất cao, ngồi chồm hổm vừa nhai trầu
vừa nhìn qua bên kia sông, nhìn miết.
Mô đất nầy, cách đây hơn ba mươi năm
- hồi thời kháng chiến chống Tây – chính tay bà và
đồng bào trong xóm đã đắp lên làm ụ súng cho
du kích bắn tàu Tây chạy ngoài sông Cái. Hồi đó, mô
đất cao lắm. Bây giờ nó đã mòn lần nhưng
vẫn còn đủ cao để bà Hai, dầu ở vị
trí ngồi, vẫn nhìn thấu tuốt qua bên kia sông. Bên kia
sông là quận Gò Keo, ở đó có sở cao su của
Năm Lượm, em út của bà. Bà còn nhớ rõ như
in : « Hồi nẳm, thằng Lượm làm cặp-rằng
trong sở cao su của thằng tây Mi-Sên. Kế đến
tây rút đi –đâu hồi một ngàn chín trăm năm mấy
gì đó- thằng Mi-Sên kêu bán rẻ lại cho thằng
Lượm. Thằng hên ! Nó bán đi phần ruộng
ông già để lại cho nó rồi chạy thêm mớ nợ,
mua trọn gói sở cao su ! Vậy rồi nó giàu ngang, mới
tức cười ! » Thường thì kể đến
đây bà Hai hay ngừng lại để xỉa cục thuốc
qua lại mấy lần rồi mới nói tiếp ;
« Bây coi ! Hồi thời ông gì đó, chỉ có Út
Lượm là sắm được chiếc ca-nô tổ chảng,
chạy lên chạy xuống tỉnh hà rầm. Lâu lâu còn cho
mấy ông lớn mượn đi bắn le le nữa !
Hồi ông nhà tao còn sống, nó hay lái ca-nô qua đây nhậu
với ổng. Mẹ ! Mỗi lần ca-nô nó vô tới
đầu vàm rạch là nó hú còi nghe điếc con ráy, còn
làm nổi sóng cho nước phóng lên bờ, bà con trong xóm ai
cũng hay là có ông Út qua ! » Bà thường ngừng ở
đây để cười khịt khịt mà nghe sung
sướng ở trong lòng, bởi vì trong ba thằng em trai,
bà Hai thương thằng em út nầy nhứt. Bà hay
nói : « Thằng Lượm tuy ít học hơn hai anh
của nó nhưng bụng dạ nó tốt lắm. Ăn ở
có nhơn nên dân thợ trong sở cao su ai cũng thương.
Hồi giàu lên rồi, nó cũng không quên ai hết. Như
anh Ba của nó đi tập kết đâu tuốt ngoài bắc
viết thơ về gởi gắm hết người nầy
tới người kia cho nó, vậy mà nó cũng lén nuôi
đàng hoàng. Còn thằng anh Tư của nó theo bên vợ làm
thầy giáo ở Cần Thơ muốn mở trường
tư thục gì gì đó, nó cũng mang tiền xuống
giúp. Thằng tốt ! »
Trong làng Bình Quới nầy ai cũng biết vụ bà Hai
ngày ngày ra ngồi trên mô đất nhìn miết qua bên kia
sông. Chuyện xảy ra sau ‘giải phóng’, từ ngày người
con trai út của bà, tên Trực, ở Sài Gòn về thăm bà
và để cho hay là vợ con của Trực đã theo tàu
hải quân di tản rồi, còn Trực thì phải lo khai
báo với chánh quyền mới để có giấy tờ
hợp lệ bởi vì Trực là sĩ quan của chế
đõ cũ. Trực nói : « Chừng có giấy tờ,
con về đây ở với má. Chắc chừng vài ba bữa
nửa tháng, hà ! » Nghe vậy, bà Hai rất vui, têm trầu
ăn liền liền ! Bà nói : « Tao chỉ có hai
thằng con, mà Trời thương, thằng nào cũng
được hết. Thằng Cang -thằng lớn-
đi lính quốc gia. Nghe nói nó đánh giặc gan lỳ. Vậy
mà không bao giờ nó nói động tới thằng cậu
Ba nó ở ngoài kia. Còn thằng Trực - thằng út – thì
thông minh học giỏi, vậy mà sau khi anh hai nó chết trận
ở Công-tum Công-tiết gì đó, nó đang học đại
học cũng bỏ học đi lính nói để trả
thù cho thằng anh ! » Bà hay ngừng một chút rồi
mới nói tiếp, như để kết một câu chuyện :
« Bây giờ thì hết giặc rồi. Vài bữa thằng
Trực về đây, tao sẽ chỉ nó lo chăm sóc cây
trái vườn tược thế cho con Tư để
con nhỏ còn đi lấy chồng chớ ! » Nói
như vậy bởi vì mấy năm gần đây, từ
ngày ông Hai nằm xuống, bà Hai hay ngã bịnh bất
thường nên người em bà con ở bên quận gởi
đứa con gái là cô Tư – ba mươi tuổi, chưa
chồng – qua ở với bà để lo cơm nước
vườn tược v v… Cô Tư kêu bà bằng Dì.
Sau khi Trực trở về Sài Gòn, một hôm, đò ngang từ
bên quận Gò Keo qua làng Bình Quới ngừng lại trước
nhà bà Hai thả xuống một ông già lưng mang ba-lô, ốm
nhom đen thui đầu bạc trắng. Người lái
đò chỉ tay nói lớn : « Ông đi thẳng vô
trong, cái nhà gạch nền đúc đó, đó ! »
Nghe lao xao, cô Tư nói : « Dì Hai ! Dì Hai ! Có ai
kìa ! » Bà Hai nheo mắt nhìn : má bên trái của ông
già có một nút ruồi với một sợi râu lăng
quăng. Bà rớt nước mắt : « Mầy còn
sống hả Ba ? » Vậy là hai chị em gặp lại
nhau, vẫn nhìn ra được nhau sau hơn hai
mươi năm xa cách ! Út Lượm hay tin cũng xách
ca-nô chạy qua thăm anh Ba, tủi tủi mừng mừng.
Cô Tư dầu chưa biết ‘ Cậu Ba ‘ là ai nhưng
trước cảnh gặp nhau đó, cô cũng nghe xúc
động nước mắt chảy quanh….Sau đó, để
hàn huyên cho đã, nên ông Ba dự trù ở lại chơi thêm
năm bảy hôm.
Bữa nọ lối mười giờ sáng, có tiếng
ca-nô chạy xộc vô rạch. Thằng Kiên, con Út Lượm,
u vào nhà, vừa thở vừa nói : « Con qua rước
bác Ba về can thiệp gắp vụ nầy : họ
đang kiểm kê để tịch thâu sở cao su ở bển
đó ! » Ông Ba cười : « Bây làm gì như
Mỹ bỏ bom vậy ? » Rồi quay qua bà Hai :
« Chị để em qua bển một chút. Em nói mấy
tiếng rồi về, hà ! Biểu con Tư nó nấu
cho em miếng cháo gà ăn chơi ! » Rồi ông xuống
ca-nô qua quận. Bà Hai ở nhà đợi em. Càng lúc càng
trưa, rồi đứng bóng, rồi xế bóng. Chừng
đó mới thấy một chiếc xuồng nhỏ, với
tiếng giầm khua nước lách chách, đâm đầu
vào chân cầu thủy tạ trước nhà, ông Ba lò dò
bước lên. Bà Hai và cô Tư chạy ra bươn bả :
« Ủa ! Sao vậy cậu Ba ? Còn ca-nô
đâu ? » Ông Ba lắc đầu : « Tụi
nó kiểm kê luôn rồi ! » Bà Hai thở hắt
ra : « Còn thằng Út ! » Ông Ba cười
như mếu : « Nhờ nó có công nuôi cách mạng nên
mấy đồng chí đó giữ nó lại làm trong tổ
kế hoạch, làm tổ viên thôi nhưng cũng có
lương. » Bà Hai phun cốt trầu nghe cái phẹt :
« Hứ ! Đồng chí với đồng rận !
Lương với lậu ! » Bà ngừng ở
đó, nhai miếng trầu trong miệng như nhai cái tức
ở trong lòng. Một lúc, bà mới nói : « Tao tưởng
mầy đi theo tụi nó mấy chục năm để
làm được cái giống gì, té ra mầy cũng trớt
quơ cũng bạch tuộc như mấy thằng cô hồn
trôi sông lạc chợ chớ có hơn gì đâu ? Hỏi
chớ mầy đi theo tụi nó chi lâu vậy ? »
Ông Ba đốt điếu thuốc rồi ngồi bập
liên miên, làm như khói thuốc có thể che cho ông đỡ
ê mặt ! Bà Hai xỉa cục thuốc qua lại, ấn
mạnh vô răng như muốn kỳ cọ cho cái ‘lớp
tức’ nó bong ra ! Một lúc sau, bà nói với cô Tư, giọng
thật trầm tĩnh : « Tư ! Mầy đẩy
xuồng trong xẽo ra đưa cậu Ba qua sông,
đi ! » Cô Tư nhìn bà, ngạc nhiên. Nhưng người
ngạc nhiên nhứt là ông Ba. Ông nuốt nước miếng
rồi mới nói được : « Bộ chị
đuổi em hả chị Hai ? » Bà Hai tằng hắng :
« Tôi đâu có đuổi !Ai mà dám đuổi cách mạng !
Tôi… mời cậu ra khỏi nhà, chớ ở lại
đây, thiên hạ cười tôi thúi mặt sao cậu ? »
Ngần ngừ một chút như định nói gì, nhưng
rồi ông Ba lẳng lặng xách ba-lô cuối đầu
đi thẳng ra bờ rạch, bước xuống xuồng
mà nghe như trời đất ngã nghiêng chao đảo….
Thằng em đi rồi, bà Hai như người mất hồn.
Tối ngày làm thinh, ngồi bó gối trên bộ ván nhỏ
kê ngoài hàng hiên, vừa ăn trầu liên miên vừa nhìn
đăm đăm ra phía rạch như đợi như
chờ cái gì. Thấy kỳ, cô Tư hỏi : « Bộ
đợi ai sao dì Hai ? » Một lúc, bà mới trả
lời : « Tao đợi thằng Trực ! Nó nói
nó đi năm ba bữa gì đó là về. Vậy mà đã
hơn con trăng rồi sao hổng thấy bóng dáng gì hết »
Rồi bà lầm bầm : « Thằng ! Đi mất
biệt ! » Cô Tư nói : « Con nghe nói… » Rồi
ngừng ngang. Cô định nói là cô có nghe nói sĩ quan chế
độ cũ đều bị đi cải tạo, chắc
giống như đi ở tù… nhưng cô sợ dì Hai hết
hồn nên cô bỏ lửng câu nói. Trong nhà, ngoài cô Tư ra,
ông Út Lượm – lúc nầy lâu lâu chèo xuồng qua thăm
chị Hai – cũng biết vụ ‘cải tạo’ nhưng
ông không dám nói cho bà chị biết. Vì vậy, bà Hai cứ
ngày ngày ngồi đợi thằng con. Và trách : « Thằng
đi mất biệt ! »
Mới đầu, bà còn ngồi chờ trên bộ ván hàng
hiên. Thời gian sau, khi trời nắng ráo, bà hay đi tuốt
ra ngoài vàm rạch lên ngồi trên mô đất để có
thể nhìn thẳng qua bên kia sông. Như vậy, ‘ khi nào thằng
nhỏ nó về, mình thấy nó từ đằng xa, nó có
đi đò, trong đám đông mình cũng nhìn ra được
nó liền hà !’. Vậy rồi ngày ngày bà ra ngồi trên
mô đất, như một pho tượng. Thiên hạ
trong làng đi ghe đi xuồng ngang qua, có hỏi thì bà trả
lời, lúc nào cũng chỉ có một câu : « Ợ…
Tao đợi thằng đi mất biệt ! » Không
ai ngừng lại để hỏi tiếp coi ‘ Thằng
đi mất biệt ’ là ai ? Riết rồi thành quen nên
lâu lâu nghe có người chèo ngang qua hỏi cho lấy có :
« Đợi thằng đi mất biệt hả bà
Hai ? » Rồi đi tuốt….
Cái mô đất bà ngồi, bây giờ láng cón. Cỏ dại
chỉ mọc cao ở dưới chân, bao quanh giống
như một hàng rào. Người mẹ đợi con
đó ngã bịnh rồi chết, hai năm sau. Bà nhắm mắt
mà trong lòng chắc vẫn trách thằng con sao đi mất
biệt. Lúc hấp hối, bà Hai còn rán thều thào :
« Bây chôn tao ở đầu vàm cho tao thấy thằng
Trực trở về…. » *
* *
‘ Thằng đi mất biệt ’ được thả về
sáu năm sau, nhờ học tập tốt. Đi đón Trực
ở bến xe đò quận Gò Keo là ông Ba và ông Út. Ông Út, vì
rầu sự nghiệp nên già khú, vẫn là công nhân nhà máy cao
su. Ông Ba về thọ tang bà Hai rồi ở lại luôn Bình
Quới để giữ ‘đất đai ông bà’ kẻo
‘mấy thằng ác ôn nó quen thói côn đồ đớp hết
của người ta’, ổng nói như vậy ! Bây giờ,
ông Ba hay cười gằn, cầm cây rựa quơ
quơ : « Tụi nó có muốn vô nhà nầy phải
bước qua xác của tao, nè ! »
Hai ông đưa Trực ra đầu vàm thăm mả bà
Hai nằm cách mô đất không xa. Sau khi thắp nhang vái lạy,
ông Ba kể cho Trực nghe chuyện bà Hai ngày ngày ra ngồi
trên mô đất để trông ‘ thằng đi mất biệt
’. Trực ngồi thụp xuống, úp mặt vào hai tay khóc
ngất. Ông Ba chấp tay nói như nói trước mặt
người chị : « Chị Hai ơi ! Thằng
đi mất biệt của chị, nó về rồi
nè ! » Bỗng, mặt ông nhăn nhúm lại, giọng
ông cao lên : « Mà… thằng Trực đâu phải là thằng
đi mất biệt đâu, chị Hai ! » Rồi
ông nấc lên, vứa đấm vào ngực vừa la lớn :
« Em mới là thằng đi mất biệt đây, chị
Hai à ! » Ông quì xuống ôm lấy mộ bia, gục
đầu lên đó, nức nở. Cái đầu tóc trắng
lắc qua lắc lại, nói lên tâm tư của một
người không tìm ra đáp số cho bài toán khó.
Ông Út khom xuống, đặt tay lên vai anh bóp nhẹ :
« Anh Ba à ! Anh nói được như vậy là anh
đã thấy con đường về rồi đó, anh
Ba ! »
|