Ông Năm Từ
Cả xóm đó ai cũng biết ông Năm Từ.
Nói như vậy cũng chưa đúng. Phải nói rằng
cả làng đó – nghĩa là trên một bình diện to rộng
hơn – hỏi ông Năm Từ là ai cũng biết. Ổng
"nổi danh" như vậy không phải vì ổng là
một nhân vật quan trọng trong làng trong xóm, mà vì lâu lâu ổng
có những cơn say rượu "dậy làng dậy
xóm" nên người lớn trẻ con đều biết
mặt ổng hết. Nhứt là trẻ con, những lúc
đó, tụi nó bu theo ổng như một đàn ruồi... Ổng thứ
Năm, tên gì thì ít có người biết, nhưng tại vì
ổng làm ông từ giữ việc quét dọn cúng kiếng
trong đình của làng đó, nên người ta gọi
như vậy. Cái "thứ" của ổng
được ghép vào với cái " chức" của ổng,
lâu ngày trở thành cái " tên", vậy mà cũng chẳng
thấy ổng đính chánh sửa đổi gì hết. Làm
như đó là một sự tự nhiên. Riết rồi
thiên hạ chẳng ai để ý, và có lẽ chính ông
Năm Từ cũng quên luôn tên thật của ổng nữa! Mấy ông già bà cả gốc xóm Đình – nghĩa
là không phải mấy người mới tản cư
đến đó về sau này – đều biết ông
Năm hồi ổng còn trẻ, hồi những năm
kháng chiến chống Pháp. Hồi đó, ổng chưa làm
ông từ, ổng làm thợ câu, nhà ở dưới dốc
đình, cạnh bờ sông. Người ta gọi ổng là
Năm Câu, gọi trổng, nghĩa là không thêm một tiếng
gì phía trước hết. Vậy là từ hồi trẻ,
Năm Câu đã được người ta gọi bằng
danh từ ghép, trong đó không có tên cúng cơm của mình.
Đến người trong gia đình cũng không ai gọi
Năm Câu bằng tên. Họ gọi " thằng
Năm". Ông bà già vợ gọi " thằng chồng
con Hai". Còn người vợ thì gọi " mình"
khi nói với chồng hay "nhà tôi" khi nào
nói chuyện với người khác. Mấy ông già bà cả lâu lâu hay nhắc chuyện
Năm Câu hồi thời 1945. Họ nói:" Năm Câu hồi
đó gan cùng mình. Nó chèo xuồng đưa du kích qua bên kia
sông như ăn cơm bữa. Nói cho ngay, cũng có bà con xóm
Đình coi chừng Tây với bạc-ti-dăng giùm nó.
Nhưng có nhiều khi Năm Câu cương ẩu làm đại
như giỡn chơi. Làm bà con muốn xón trong quần luôn!
". Thật ra, Năm Câu làm gan một phần cũng
nhờ ở địa thế của vùng đó và ở vị
trí đóng quân của tụi Tây. Làng của Năm Câu nằm
trên tả ngạn sông Vàm Cỏ Đông. Bên kia sông là bưng
với rừng tràm mút mắt. Cuối rừng tràm là rừng
già chạy dài qua Cao Miên. Vùng giáp giới đó tên là Bù Lu Chuối
Nước. Kháng chiến lập chiến khu ở đó. Điểm đặc biệt của làng
Năm Câu là đất ở đó không bằng phẳng. Có
gò cao trũng thấp, hai gò cao nhứt lại nằm ở
hai đầu làng. Gò đầu trên – trên là vì nằm về
phía thượng lưu con sông – gọi là gò đồng mả,
ai chết cũng đều đưa lên đó chôn. Gò
đầu dưới gọi là gò Đình, bởi vì trên gò
đó có cái đình thờ thần của làng. Chung quanh
đình là rừng cây dầu kéo dài xuống tiếp nối
với một làng khác nằm dưới hạ lưu. Hai
gò nằm cách nhau xa cỡ mấy cây số. Chính giữa trũng
xuống là chợ búa và nhà cửa dân cư cất dọc
theo bờ sông. Tây đóng đồn ở đây – nghĩa
là ở giữa dân chúng – trên đất của ông đốc
phủ Lễ. Nhờ vậy, mỗi lần Tây dẫn bạc-ti-dăng
đi ruồng bố là thiên hạ đều hay hết. Đường xuống đình băng ngang
một khoảng trống khá rộng gọi là “hố quằn”,
hồi xưa là con rạch nhỏ lâu ngày bị đất
gò trôi xuống lấp đi. Ở đó vào mùa mưa là ngập
nước. Dân xóm Đình phải xăn quần tới bẹn,
lội qua đó mà xuống chợ. Nếu không chịu
đi như vậy thì phải đánh một vòng rất
xa, dọc theo bìa rừng dầu đi sâu về phía dưới
rồi băng qua ruộng đến con lộ cái đi
ngược trở lên. Xa như vậy cho nên về mùa
mưa, Tây ít đi ruồng miệt xóm Đình. Và về mùa
mưa, gò Đình xem giống như một hòn đảo! Nhờ địa thế gò Đình như vậy
nên Năm Câu đưa rước kháng chiến qua sông dễ
như trở bàn tay. Có hôm Năm Câu theo họ vào Bù Lu Chuối
Nước chơi hết mấy bữa mới về, làm
trong xóm tưởng Năm Câu đi khu luôn. Nghe như vậy,
Năm Câu cười khịt: " Đi luôn rồi lấy
ai mà chèo xuồng đưa mấy chả đây? ". Năm Câu có hai đời vợ. Người
vợ trước cưới về chưa đầy một
năm, đau rồi chết. Ít lâu sau, Năm Câu cưới
người vợ thứ nhì. Chị này người xóm
Chùa, bán cá ngoài chợ. Nhờ ba con cá mà hai người phải
lòng nhau. Bữa đám cưới, mấy ông già nói: "
Trai xóm Đình cưới gái xóm Chùa là đúng điệu
quá rồi. Thợ câu xâu chị bán cá, thiệt là xứng
đào xứng kép!". Vậy mà chị này, sau khi đẻ
thằng con trai cho Năm Câu, đau rề rề hai ba tuần
lễ rồi cũng tắt thở. Mấy bà trong xóm nói
Năm Câu có tướng sát thê. Rồi họ kết luận:
" Con nhỏ nào về ở với nó vài bữa rồi
cũng ngủm tuốt. Mấy thằng đàn ông sát thê là
vậy đó! ". Nghe như vậy, Năm Câu đành ở
vậy nuôi con. Để khỏi phải chôn thêm bà vợ
nào nữa hết. Thằng con Năm Câu tên là Nhành. Càng lớn
càng kháu khỉnh. Khi biết nói đỏ đẻ, nó gọi
Năm Câu bằng tía nhưng vì còn ngọng nghịu nên nó
phát âm là “chía” làm Năm Câu sướng rơn ! Ngày nào
Năm Câu cũng gởi con cho bà hàng xóm để đi câu.
Nhưng khi về đến nhà là bồng riết thằng
nhỏ, rê nó đi khoe cùng xóm. Lâu lâu vừa nựng con cu của
thằng nhỏ, vừa nói đả đớt: " Tru mẹ!
Ton tu này đái chôi thằng cha nó luôn." (Đu mẹ! Con
cu này đái trôi thằng cha nó luôn). Nói như vậy bởi
vì hai cha con ngủ chung với nhau, và đêm nào thằng
Nhành cũng đái dầm. Riết rồi gối mền gì
đều khai ngấy. Từ ngày vợ chết, Năm Câu
nghỉ câu đêm, ở nhà ngủ với con. Những
đêm phải đưa người qua bưng, bà hàng xóm
qua coi chừng thằng nhỏ trong thời gian ngắn chèo
đi chèo về. Lúc này, Năm Câu không còn cò cưa ở bên
kia sông như hồi đó nữa, đưa qua rồi là
chèo rút về để ngủ tiếp với con. Làm
như ghiền cái hơi hám đó, bởi vì trong mùi khăn
khẳn của gối mền có lẫn mùi da thịt và nhịp
thở thơm tho của thằng Nhành... Trong đời
người thợ câu đó chỉ có thằng con là quí nhứt. Ông từ giữ đình hồi đó là chú bà
con của Năm Câu. Những lúc rỗi rảnh, Năm Câu
thường lên đình phụ quét dọn với chú, và
năm nào đến lễ cầu an (dân trong làng gọi là
lễ " kỳ yên"), Năm Câu cũng nghỉ câu mấy
bữa để giúp chú coi trong coi ngoài, bởi vì mấy
ngày đó trên đình người ta đông như kiến.
Nhờ tới lui với người chú như vậy mà
Năm Câu rành việc cúng kiếng tế lễ theo tập
tục cổ truyền. Cho nên làng xã và các bang hội hay nhắn
Năm Câu tới giúp mỗi lần có tổ chức cúng
bái. Năm Câu làm những việc đó một cách rất nghiêm
trang và thành kính chớ không phải hụ hợ bề
ngoài. Bởi vì Năm Câu tin tưởng rằng có Ơn
Trên – gồm Trời Phật Thánh Thần – và có Ông Bà phò hộ
nên làng này mới bình yên như vậy và dân chúng mới làm
ăn phát đạt như vậy. Năm Câu hay tự nhủ
: " Hễ mình nghĩ phải, làm phải
thì thế nào cũng có Thánh Thần độ trì". Sự
tin tưởng đó thường được bộc lộ
bằng những câu như " Thần làng mình linh lắm
đó bà con. Tây mà còn không dám rớ tới đình thì phải
biết!". Hoặc thường hay khuyên: " Thề thốt
bậy bạ đây rồi bị Thần vặn họng
đừng có trách!". Nói như vậy, bởi vì có lần
Năm Câu chứng kiến một vụ thề trước
đình của hai chị đàn bà. Hai chị này ở xóm Lò
Gạch, nhà ở cạnh nhau. Một hôm, xảy ra chuyện
mất tiền, rồi chị này nói chị nọ ăn cắp.
Mới đầu còn đứng hai bên bờ rào xương
rồng, lời qua tiếng lại. Một lúc sau, chạy
xồng xộc ra ngỏ xỉa xói nhau, lôi bà con dòng họ
ra mà chửi rủa rồi xáp vào nhau đánh lộn. Nhờ
hàng xóm chạy qua can gián, họ mới chịu yên. Yên, nghĩa
là không đánh chửi nhau, nhưng mỗi bên lôi hàng xóm ra
để phân bua và làm chứng. Cuối cùng là họ kéo nhau
xuống đình để thề... Thiên hạ chạy theo
coi, cũng hâm hở không kém người trong cuộc! Rần
rần rộ rộ như vậy mà khi vào trong đình là im
phăng phắc. Tới đó rồi mà hai chị đàn bà
vẫn còn thách nhau, mặc dù không dám to tiếng: " Mầy
giỏi mầy thề đi! Thề đi!". Cò cưa một
lúc rồi cũng có chị thắp nhang thề trước:
" Tôi xin thề trước đình là nếu tôi có ăn
cắp tiền của con nhỏ này thì cho xe lửa cán tôi
đi!". Đến lượt chị thứ nhì, giọng
còn hậm hực: " Tôi mà nói gian cho nó cũng cho xe lửa
cán tôi đi!". Sau đó họ kéo nhau về, rã làm hai tốp,
mỗi tốp đi theo một chị, im lặng, lo lắng.
Trong thâm tâm mỗi người hàng xóm đều có một
sự chờ đợi, phập phồng. Không ai để
ý rằng chẳng có chị nào dám nói " thề trước
Thần" mà chỉ dám nói " thề trước
đình" và chuyện " xe lửa cán" ở cái làng
xa xôi này thật là quá vô lý! Vậy mà tháng sau, cả hai chị
đàn bà đó đều ngã lăn ra chết. Chị bị
tình nghi ăn cắp tiền chết trước, trúng gió,
nằm liệt mấy hôm rồi chết không trối
được một tiếng. Hàng xóm nói chỉ " mắc
lời thề ". Chị mất tiền chết sau, thầy
pháp nói chỉ bị vong hồn của chị chết
trước bắt! Hàng xóm lại nói chỉ " cũng mắc
lời thề "... Năm Câu thì nghĩ khác. Năm Câu cho
rằng hai chị đó " giỡn mặt với Thần;
chuyện bậy bạ đâu mà dám đem Thần ra làm chứng
", vì vậy mà cả hai đều bị " Thần
quở ". Vụ thề thốt đó đã làm cho
Năm Câu càng tin tưởng mãnh liệt ở sự linh
thiêng của Ơn Trên... Rồi
một năm đó, vào mùa mưa, ông từ giữ đình
qua đời. Làng xã và bang hội đưa Năm Câu vào
đình thay thế. Từ đó, Năm Câu trở thành
Năm Từ, dọn lên ở cái nhà nhỏ sau đình. Rồi
cũng từ đó, thằng Nhành- lúc này đã bắt đầu
lớn - nối nghiệp tía nó
luôn.
Hồi
còn nhỏ, nó học hết lớp nhì rồi ở nhà học
nghề câu với tía nó. Lâu lâu nó cũng theo tía nó chèo xuồng
đưa du kích qua sông (Bấy giờ, người ta gọi
mấy người đi kháng chiến là du kích). Mấy chú
du kích hay vò đầu nó hoặc để cho nó mân mê mấy
khẩu súng lục. Nó khoái thứ này lắm. Vừa láng vừa
nặng. Rờ vào thấy lạnh ngắt mà khi cầm
trong tay thì bỗng nhiên mình cảm thấy mình không còn biết
sợ cái gì hết ! Giống như có vô bùa... Những lúc
đó, mắt nó ngời lên thích thú cũng bằng như vừa
kéo lên một con cá bự. Bây giờ thằng Nhành đi câu một mình. Lâu
lâu cũng đưa du kích qua sông như tía nó đã làm hồi
đó, và lâu lâu cũng " đi mất " vài hôm... Thằng Nhành không chịu lên ở trên
đình với tía nó. Nó thường đến phụ quét
dọn trong đình ngoài sân, nhưng xong việc là nó trở
về cái chòi tranh ở bờ sông. Ở đó, nó có cái thế
giới của nó, cái thế giới mà tía nó đã tạo
ra và trong đó nó đã sanh ra, lớn lên, quen nhìn quen thấy.
Chẳng có gì đặc biệt: nhà tranh nền đất,
một gian, một chái làm bếp, nhìn ra sông qua một sân có
trồng mấy bụi mía, đám mì, mấy cây ớt, phía
sau là đám chuối xiêm với giàn bầu, bên hông là con lạch
nhỏ có chiếc cầu con bằng ba tấm ván vừa
dùng để tắm giặt vừa dùng để cột
xuồng. Chỉ có ngần đó thứ, thật
đơn sơ nhưng cũng thật là thân thuộc, những
thứ đã dính liền vào cuộc sống của nó từ
thuở ấu thơ và bây giờ đã trở thành của
riêng của nó, của một mình nó thôi. Năm Từ ở trên đình cũng buồn.
Thường xuống câu với thằng con mấy bữa
hoặc ở lại ngủ với nó mấy đêm.
Người ta nói: " Năm Từ không thể vắng
con quá ba ngày!". Sáng nào cũng vậy, đi câu về chèo
xuồng ghé qua chợ giao cá cho bạn hàng xong, thằng
Nhành chèo miết về nhà tắm rửa rồi thả bộ
lên đình kiếm tía nó. Năm Từ cũng vừa cúng
nước xong. Hai cha con đưa nhau xuống xóm Nhà Máy, uống
cà phê ở tiệm Tửng Gòn. Chú Tửng Gòn năm nay
đã năm mươi ngoài, nhưng người trong xóm vẫn
tiếp tục gọi là " tửng ", vì đã quen gọi
như vậy từ mấy chục năm nay, từ hồi
chú còn nhỏ. Chú là người Quảng Đông. Ông già chú
làm trong nhà máy xay lúa của ông bang Xồi từ hồi xửa
hồi xưa. Qua tới đời bang Bi – con bang Xồi –
lên làm chủ, ổng cũng vẫn tiếp tục làm cho
đến khi ổng mất. Tửng Gòn hồi bên Tàu mới
qua, không biết nói một tiếng Việt Nam. Vậy mà
đi chơi chung với bầy trẻ trong xóm, ọ ẹ
riết rồi cũng nói được, tuy rằng phát âm
vẫn còn lơ lớ. Cách phát âm đó, mấy chục
năm sau Tửng Gòn vẫn không sửa được mặc
dù cưới vợ Việt Nam và đẻ một bầy
con chẳng có đứa nào biết một tiếng Tàu ! Tửng
Gòn và Năm Từ quen thân nhau từ hồi nhỏ. Hồi
đó, trẻ con phá phách nhứt trong xóm là " thằng
Năm và thằng Gòn". Hai đứa chiều nào cũng
rủ một bầy con nít xuống tắm sông ở bến
gỗ trại cưa thầy Cai. Ở đó có cây gừa
thật to, gốc trên bờ nhưng thân nghiêng ra ngoài nên những
cành già thả rễ dài xuống mặt nước. Mấy
đứa nhỏ bám mấy rễ đó đu qua đu lại
hoặc để lấy đà quăng mình ra xa lộn một
vòng trước khi rơi ùm xuống nước. Cây gừa
đó đã bị trận lụt năm Thìn lôi tróc gốc,
nhưng những kỷ niệm cũ Tửng Gòn vẫn còn
nhắc hoài. Có lần, thằng Nhành nghe Tửng Gòn kể lại:
" Hồi đó tao chưa biết lội. Thằng
Năm bày đặt bắt chuồn chuồn cho cắn rún
tao đau thấy mẹ rồi xô tao xuống nước
làm tao uống hết một bụng ! May là chỗ đó cạn
chớ không thì đã chết chìm rồi. Đu mẹ ! Thằng
ác can không nổi !". Gợi lại những mẩu chuyện
nhỏ hồi xưa, Năm Từ và Tửng Gòn nghe trong
lòng vừa cảm động vừa thích thú. Bây giờ,
hai người vẫn " mầy tao " như hồi
đó, nhưng nhìn nhau đã thấy bắt đầu
già...Nói chuyện với Tửng Gòn, Năm Từ hay ví mình
như cái đình, cũng xưa, cũng cũ, cũng rêu
phong, còn thằng Nhành thì được tía nó ví như một
cái nhà gạch nền đúc, mái lợp bằng ngói móc tân thời
lúc nào cũng đỏ au màu mới. Ví von không phải
để tiếc nuối tuổi tráng niên của mình hồi
đó, mà để thấy tự hào đã tạo ra thằng
con như vậy. Cái sung sướng của Năm Từ
là thằng Nhành tiếp nối nghề nghiệp của tía
nó và hai cha con vẫn ở gần nhau chớ không phải
như bầy con của Tửng Gòn,từ ngày mẹ chết,
tụi nó theo người bà con xuống Chợ Lớn làm
ăn, bỏ ba tụi nó một mình với quán cà phê . Lâu
lâu Tửng Gòn hay than: " Mầy có phước hơn tao,
một cây có một trái mà lúc nào cũng có cha có con. Còn tao
đẻ một bầy năm đứa mà rốt cuộc
cũng như không có đứa nào hết ! Đu mẹ nó
!". Tửng Gòn lúc nào mở miệng cũng phải chửi
thề. Làm như là một sự cần thiết cho câu
nói. Thật ra, tiếng chửi thề là tiếng Việt
Nam mà Tửng Gòn học nói đầu tiên với mấy
đứa nhỏ, hồi bên Tàu mới qua. Rồi cứ lập
đi lập lại riết nên trở thành cái tật, bỏ
không được ! Như vậy, từ mấy chục
năm nên cũng không ai để ý nữa. Năm Từ cũng
quên mất là chính mình hồi đó đã dạy " thằng
Gòn " nói tầm bậy tầm bạ nhứt, để
cười chơi. Bây giờ, lâu lâu nhớ lại tiếng
chửi thề " chấm câu " của thằng bạn
người Tàu, Năm Từ nghe thương bạn vô
cùng. Vừa thương tính thật thà "học sao nói vậy
" của Tửng Gòn từ hồi xửa hồi xưa
tới giờ vẫn không thay đổi, vừa
thương tình cảnh gia đình người bạn, cũng
góa vợ như mình nhưng không nhờ cậy gì được
ở bầy con. Những lúc đó, Năm Từ nhìn thằng
Nhành một cách trìu mến và thấy tất cả cuộc
sống của mình đều tích tụ vào nó như đốm
lửa ngọn đèn dầu thắp sáng trong đêm:
Năm Từ là cây đèn dầu mà thằng Nhành là đốm
lửa nằm trên đầu sợi tim, sức sống của
cây đèn. ...Rồi một
hôm có tin đình chiến với hiệp định gì
đó chia hai đất nước. Chia ở đâu, thiên hạ
không rõ nhưng nghe nói hết giặc là ai cũng mừng. Ở
ngã ba lộ cái người ta tụ tập, nghe ngóng, bàn tán
xôn xao. Tây và bạc-ti-dăng rút vô đồn, bỏ mặc
bên ngoài dân chúng muốn làm gì thì làm. Xe đò nào từ Sài Gòn
chạy về ngang cũng phải ngừng lại ngã ba
để người ta hỏi thăm tin tức. Làm
như đó là cơ quan thông tin ! Thôi thì mạnh ai nấy
nói: tài xế, lơ, hành khách người nào cũng muốn
chứng tỏ rằng mình am tường tình hình, ồn ào
như cái chợ! Nói nghe thì nhiều, nhưng rốt cuộc
chỉ vây quanh có mấy điểm: Tây thua mình thắng, xứ
sở tạm thời chia hai, ai muốn ra Bắc thì theo tập
kết, ai muốn ở miền Nam thì tự do vào miền
Nam, vài bữa trưng cầu dân ý để thống nhứt.
Thật là giản dị ! Vài hôm sau thấy có vài anh du kích về thăm
nhà để sau đó đi tập kết. Đi lại thật
tự do, làm như chuyện đánh giặc mười
năm chỉ là chuyện giỡn chơi trong giây lát. Có vài
người ghé thăm Năm Từ và thằng Nhành để
cám ơn vụ đưa rước qua sông. Họ rủ
thằng Nhành theo họ ra Bắc " chơi cho biết
". Thấy được dịp đi đó đi
đây thằng Nhành cũng hăng lắm, nhưng khi nó
nhìn thấy đôi mắt tía nó tối lại, nó biết
tía nó không bằng lòng nên nó làm thinh. Năm Từ trả
lời: - Bây giờ yên rồi, cha con tôi kể như
đã làm tròn nhiệm vụ đối với
kháng
chiến. Mấy chú cứ đi đi. Để thằng
Nhành ở lại với tôi cho có cha có con. Họ giải thích dông dài để thuyết
phục Năm Từ, nhưng rốt cuộc đành đề
nghị ở lại chơi một ngày và đi câu với
thằng Nhành đêm đó trước khi chia tay để
đi tập kết. Sáng hôm sau, cúng nước xong, Năm Từ
ra ngồi chồm hổm ngoài cổng đình hút thuốc,
đợi con, Người trong xóm đi chợ, ngang qua
chào hỏi: - Đợi thằng Nhành hả chú Năm? Hỏi mà không cần trả lời, bởi
vì họ biết chắc mười mươi là đúng
như vậy. Năm Từ ậm ừ lấy lệ, mắt
nhìn xuống dốc đình phía bờ sông. Lâu lâu đứng
lên để cái nhìn đưa xa hơn về phía dưới.
Cứ đứng lên ngồi xuống như vậy đến
khi mặt trời đã lên quá hai sào mà vẫn chưa thấy
bóng thằng Nhành. Thật là lạ! Xưa nay thằng nhỏ
chẳng bao giờ trễ tràng đến như vậy. Chắc
có chuyện gì rồi. Năm Từ đành bươn bả
đi về hướng bờ sông. Đi mà giống
như chạy. Phần vì xuống dốc, phần vì nóng
lòng muốn chóng tới nơi. Con đường mòn dẫn
tới chòi tranh của thằng Nhành, chân quen đi lại từ
bao nhiêu năm, mà bây giờ sao bỗng thấy nó ngoằn
ngoèo một cách vô lý. Phải đi vòng phía sau lò heo của
chú Mín, bước qua hai đường mương trên mấy
khúc tre gập ghềnh rồi đi quanh lò bún của dì
Tư Đập mới trổ ra ruộng mía của thầy
Cai. Ở đây lẽ ra Năm Từ phải bọc theo
ven ruộng mía đến gốc cây gõ rồi ôm bên hông lò
rèn Hai Tịnh mà ra bờ sông, nhưng đi như vậy
quá chậm. Năm Từ nhắm hướng rồi
băng càn qua ruộng mía. Lá mía cắt mặt cắt tay mà
Năm Từ vẫn không hay không biết, cứ cắm
đầu đi thẳng về phía trước. Một
lúc là ra khỏi ruộng mía. Nhìn về phía bên trái là thấy
nhà thằng Nhành, phên tre sập xuống im lìm. Đẩy
phên tre lên, bên trong vắng ngắt. Cái nhà một gian một
chái không vách ngăn, bỗng như rộng mênh mông. Năm Từ
bỏ phên tre xuống, bước ra ngoài con lạch: chiếc
xuồng câu không có đó. Chết rồi! Thằng Nhành chắc
bị gì rồi! Năm Từ hớt hơ hớt hải
chạy băng ruộng mía, chạy ngược về
đình, chạy đổ xuống xóm nhà máy, ghé quán cà phê
cho Tửng Gòn hay, nhịp thở cắt câu nói thành từng
khúc: - Thằng Nhành...bị...gì rồi...Nó đi
câu...hồi hôm giờ...chẳng thấy về...Tao
đi...mượn xuồng Hai Hiệp...kiếm nó coi. Tửng Gòn chắc lưỡi chửi thề,
chưa nói được gì thì Năm Từ đã chạy
ù đi mất. Sông Vàm Cỏ Đông rộng mênh mông. Từ bờ
bên này nhìn thấy bờ bên kia nhưng hai bờ xa nhau quá ba
dậm hú. Bờ bên kia không có xóm làng. Hồi xưa là
bưng và rừng tràm. Dân bên này chèo xuồng qua bên đó
đốn cây tràm về làm cừ hoặc đi lấy mật
ong về bán. Người ta cũng qua đó khai
mương đấp bờ làm ruộng. Mới đầu
còn ít nhưng sau rồi rừng tràm bị đốn tới
đâu là ruộng lúa lan theo tới đó. Không có ai cất
nhà ở bên đó, nhưng họ cất chòi để giữ
ruộng, hoặc thấp lè tè núp dưới lùm cây dại,
hoặc chòi cao cẳng đứng lêu nghêu giữa đồng.
Vào mùa gặt, bên đó đông như hội... Thằng Nhành thường giăng câu bên kia
sông, trong khoảng từ rạch bà Chạy kéo xuống rạch
ông Tồn, ngang qua vịnh Mù U, chỗ có chiếc ghe bầu
đụng bè gỗ chìm hồi tía nó còn trẻ. Vốn biết
rành vùng giăng câu của con, nên Năm Từ chèo riết
qua sông, đâm xéo xéo qua con rạch trên mà mắt nhìn dài theo
mé nước. Dọc bờ sông cây cối mọc um tùm. Nhiều
cây cao, tàn xòe ra như cây lọng, cò ở đâu về
đậu trắng như bông. Buổi sáng bên sông nắng
trong tinh khiết. Mặt nước trải dài rộng
thênh thang. Thật mát và thật êm ả. Cảnh trí đó,
Năm Từ đã từng thưởng thức không biết
bao nhiêu lần mà kể. Vậy mà bây giờ, nó không còn ý nghĩa
gì hết. Cái tịch mịch, cái êm ả chung quanh chỉ
làm tăng thêm sự dao động bên trong của Năm Từ.
Thà có tiếng ai hò ai hát, thà có tiếng ai gọi ai kêu để
Năm Từ cảm thấy rằng mình đang đi vào một
vùng sinh động, trong đó nếu không hy vọng gặp
thằng con thì cũng còn hy vọng gặp người này
người nọ để hỏi dò coi có ai thấy thằng
Nhành không. Đằng này, ngoài tiếng chèo khua nước,
Năm Từ còn nghe được tiếng trái tim mình
đập mạnh, hơi thở mình đứt quãng. Để
tránh cái cảm giác ngây ngấy khó chịu đang dâng lên, Nằm
Từ dừng xuồng ở miệng rạch bà Chạy,
hướng vào trong gọi lớn : - Ớ... Nhành ơi
! Ớ... Nhành ! Tiếng Năm Từ
vang dài, lồng lộng trên mặt sông, giống như tiếng
mấy người quảng cáo thuốc nói trong loa. Bầy
chim đâu đó hoảng hốt bay vù lên trời. Năm Từ
gọi tiếp mấy lần, tiếng gọi mất hút
trong xa, chỉ thấy trả về yên lặng và yên lặng.
Nước bắt đầu ròng. Năm Từ thả xuồng
trôi theo nước, mắt vẫn tiếp tục nhìn vào mấy
hốc mấy lạch, lâu lâu gọi con, nghe như tiếng
loài chim hoang chỉ sống ở ven sông để kêu khi
nước lên nước xuống... Trôi tới vịnh
Mù U thì mực nước đã để lòi cao cái bánh lái của
chiếc ghe bầu chìm. Không biết hồi xưa ghe đụng
bè gỗ cách nào mà chìm trút mũi xuống đáy sông, chổng
lái lên trời, rồi đứng nguyên ở tư thế
đó từ mấy chục năm nay. Năm Từ nhớ
hồi thằng Nhành còn nhỏ, lúc nào giăng câu gần
đó nó cũng lội tới đó để trèo lên bánh
lái lấy đà phóng xuống nước. Càng phóng ra xa chừng
nào nó càng khoái chí chừng nấy. Khi trồi lên mặt
nước, nó cười vang sông, tiếng cười thật
trong trẻo mát rượi. Tiếng cười đó
đã mất đi từ ngày thằng Nhành lớn lên, làm
Năm Từ lâu lâu thấy nhớ. Sau này, bánh lái đó là chỗ
mà thằng Nhành thường cột xuồng đợi
nước, vừa xa bờ vừa nằm vào giữa khoảng
giăng câu. Bánh lái lòi cao ra đó vậy mà thằng nhỏ
nó ở đâu bây giờ ? Không có dấu vết gì của
nó hết. Từ chiếc xuồng đến những cái
phao làm dấu đường giăng. Năm Từ gọi
tiếp rồi gọi tiếp:" Ớ... Nhành ơi ! Ớ...
Nhành !". Tiếng Năm Từ càng gọi càng nghe thảm
thiết. Chỉ có mấy âm " Nhành ơi " mà sao nghe
não nuột như một chuỗi dài than thở héo hon. Mỗi
lần gọi con, Năm Từ cảm thấy như
hơi sức bị hao mòn đi một ít. Cũng như niềm
hy vọng đang mòn lần...mòn lần... Nước càng ròng
càng chảy mạnh. Xuồng Năm Từ trôi băng
băng. Một lúc sau là tới rạch ông Tồn. Rạch
này rộng hơn rạch bà Chạy, và dài hơn vì nó dẫn
tới bìa rừng Bù Nóp. Hai bên rạch là ruộng lúa dài dài.
Trên bờ rạch, xa xa, chòi ruộng đứng bơ
vơ... Khi cho xuồng vào vàm
rạch, Năm Từ thoáng nhìn thấy trong xa ngọn cây tầm
vong mà người ta thường dùng để cắm xuống
lòng rạch giữ thuyền. Mắt sâu bỗng sáng lên,
Năm Từ lấy sức chèo ngược dòng, chèo hối
hả. Vừa chèo vừa hướng vào trong gọi to: - Ớ... Nhành ơi
! Ớ... Nhành ! Tiếng gọi con
bây giờ cũng nghe dồn dập như nhịp chèo khua
nước. Chẳng mấy lúc là đã thấy dạng con
xuồng nhỏ cắm sào bên chòi ruộng thấp lè tè.
Năm Từ thấy không phải xuồng của con,
đã chán nản, thì trong chòi có người lom khom bước
ra. Nhìn rõ thì là thằng Lưa ở xóm Lò Gạch. Thấy Năm
Từ, nó ngạc nhiên: - Ủa ! Chớ bác
Năm không hay thằng Nhành đi Dầu Tiếng rồi à
? Đến phiên
Năm Từ ngơ ngác: - Thằng Nhành... Thằng
Nhành đi Dầu Tiếng ? Thằng Lưa vẫn
chưa hết ngạc nhiên: - Chớ nó không có xin
phép bác sao ? Nó đi từ chiều hôm qua. Đi với mấy
chú du kích. Đi Dầu Tiếng để sáng nay tập kết
ra ngoài Bắc. Năm Từ bủn
rủn tay chân, vói nắm cây sào rồi tì lên đó để
khỏi quị xuống. Năm Từ còn nghe được
tiếng của mình nói: - Vậy hà ! Rồi nghe tiếng
thằng Lưa kể chuyện lại, tiếng được
tiếng mất, chập chờn như trong chiêm bao: - Chiều hôm qua, nó
chèo xuồng lên xóm của cháu để rủ cháu đi tập
kết. Cháu bị còn bà già với lúa ruộng đang mê mê
nên không dám đi. Nó gởi xuồng ở nhà cháu rồi
đi luôn với hai chú du kích. Cháu tưởng bác Năm hay
rồi chớ ! Năm Từ lại
nghe tiếng của mình nói: - Vậy hà ! Ờ...
Không hay. Thằng Lưa còn
nói loáng thoáng: - Chiều cháu về
cháu đem xuồng của nó xuống cho bác, nghen. Năm Từ " ờ
" lúc nào không biết. Chỉ biết có buông cây sào ngồi
xuống, và biết không còn gì hiện hữu nữa mà mình
thì đã chết hẳn từ hồi nào rồi... Xuồng không
được giữ lại, từ từ theo nước
trôi đi. Trôi dọc, trôi ngang như chiếc lá to giữa
dòng. Năm Từ ngồi trên đó như một pho tượng,
lưng cong cong, đầu cúi xuống, tay buông thõng. Đến
mấy khúc quanh, xuồng va vào bờ rồi trở đầu.
Nhiều lần như vậy mà Năm Từ vẫn không
nhúc nhích. Cuộc sống như ngừng lại. Chỉ có
tiếng chim hoang kêu lên từng chập, tiếng chim trầm
bổng nghe như còn tiếp tục gọi: " Ớ...
Nhành ơi ! Ớ... Nhành !" Xuồng trôi ra sông,
trôi dọc theo bờ, trôi dài xuống hạ lưu. Năm
Từ chỉ giựt mình tỉnh hồn khi xuồng đụng
mạnh vào một thân cây nằm dài trong nước. Va chạm
mạnh đến mức độ xuồng nghiêng về
một bên làm nước tràn vào trong. Năm Từ chụp
lấy cây chèo để giữ thăng bằng, rồi vừa
nạy cho xuồng rời khỏi thân cây vừa nghĩ:
" Mẹ ! Xuồng của người ta ! Rủi có bề
gì thằng Hai Hiệp chửi tắt bếp !". Khi xuồng
đã tách khá xa bờ, Năm Từ nhìn quanh thấy mình
đang ở tuốt dưới doi Cây Gõ. Nhìn ngược
lên, nhờ khúc sông vừa rộng vừa thẳng, nên thấy
nhà cửa xóm làng lúp xúp ở chân trời. Làm như muốn
chìm xuống nước. Sửa lại quai chèo, Năm Từ chèo về
chầm chậm. Không có gì phải gấp. Không còn gì phải
gấp. Bây giờ, thật sự chẳng còn gì nữa hết.
Cha mẹ chết từ hồi mình còn trẻ. Vợ chết
sau khi đẻ thằng con. Bà con thì chẳng còn ai. Có mỗi
một thằng con mà nó cũng bỏ đi mất ! Mình bây
giờ thật là bơ vơ. Cuộc đời này bây giờ
thật là không còn ý nghĩa gì nữa. Thằng Nhành đi rồi,
mình giống như cây đèn dầu bị thổi tắt
ngọn lửa. Cây đèn dầu sẽ vĩnh viễn
không còn được thắp sáng. Sự sống đã bị
ai cướp mất đi rồi... Bỗng Năm Từ
nghĩ lại: " Chắc mấy thằng du kích nó dụ
con mình, chớ thằng Nhành làm gì tự nó bỏ đi
được ?". Chưa kịp căm phẫn, lại
nghĩ tiếp: " Cũng tại mình hết. Ai biểu
đưa rước kháng chiến ? Rồi còn tập cho
thằng nhỏ đưa rước để cho nó lậm
luôn. Bây giờ còn trách ai ?". Còn đang ân hận thì lại
nghĩ khác: " Mà thằng Nhành cũng đã lớn rồi
chớ phải con nít sao mà nghe lời người ta dụ
". Cứ nghĩ quẩn nghĩ quanh rồi khi thì tức
mấy thằng du kích, khi thì tự trách mình, khi thì giận
thằng con. Lý luận vòng vo để không biết ngừng
ở đâu cho phải, giải quyết thế nào cho
đúng. Đầu óc Năm Từ rối tợ bòng bong... Mặt trời đã đứng bóng. Nước
còn ròng. Năm Từ chèo ngược nước mà có cảm
giác như đang cố ngoi lên từ đáy sông để
tìm một cái phao, một điểm tựa, một lối
thoát... Khi Năm Từ bước vào tiệm nước,
Tửng Gòn nhận thấy thằng bạn như thất
thần. Không đợi hỏi, Năm Từ thuật lại
vắn tắt, nói như cho chính mình nghe: - Nó đi rồi ! Nó trốn tao, nó đi rồi
! Đi ra Bắc với Tiên Tổ nó ở ngoải ! Tửng Gòn dậm chân chửi thề liên hồi.
Rồi nhớ lại thằng bạn chắc chưa
ăn sáng, bèn đề nghị: - Tao nấu hủ tiếu hai đứa mình
ăn nghen ! Đu mẹ nó ! Ăn cái đã ! Một lúc sau, cả hai cùng ngồi ăn, chẳng
biết nói gì với nhau hết. Tửng Gòn đem ra thêm một
tô xí quách và một xị đế: - Đu mẹ ! Thứ này đưa cay là hết
xẩy ! Năm Từ không phải bợm rượu,
tuy lâu lâu có dịp cũng lai rai. Bữa nay, sau mấy hớp
đầu, bỗng nghe trong người như được
bơm thêm một chút sinh lực. Ngẫm lại mấy ông
già xưa nói thật có lý : uống rượu để giải
sầu. Vậy thì làm thêm vài ly cho nó tỉnh mỉnh rồi
về đình còn quét lá sân trước sân sau. Mấy ổng
còn nói : "Uống rượu để quên trời quên
đất ". Vậy thì làm thêm một xị nữa cho
nó đừng nhớ gì hết. Mà thiệt ! Sau đó không
nhớ là đã nốc hết bao nhiêu xị. Quên cha nó mình
là ai, ở đâu. Chỉ còn nhớ mang máng là mình vừa mất
thằng con. Không ! Không phải ! Mình đang đi kiếm
thằng con, thằng nhỏ đi lạc đâu đó. Coi
chừng nó bị té sông. Coi chừng nó bị xe đụng.
Té sông cũng chết ! Xe đụng cũng chết !
Năm Từ giựt mình đứng phắt lên nhìn ra ngoài.
Tửng Gòn đang trố mắt ngạc nhiên thì Năm Từ
đã xiêu xiêu bước ra đường, rồi vừa
ngất ngưởng chạy như người lên đồng,
vừa kêu, vừa khóc, vừa kể lể : - Nhành ơi ! Con đi đâu ? Rồi té sông
té suối làm sao ? Rồi xe cộ cán con làm sao ? Rồi con bỏ
tía ở lại với ai ? Tía đây nè con ơi...Hu...Hu... Lâu lâu, Năm Từ té quị xuống, gượng
đứng lên, băng xiêng băng nai mà chạy tới
như được tiếp sức bởi một mãnh lực
vô hình. Trẻ con bu theo như ruồi, vỗ tay cười
khi thấy người say té chúi xuống. Người lớn
nhìn nhau, không hiểu. Có mấy người bước lại
đỡ Năm Từ lên : - Sao vậy chú Năm ? Rồi khi nghe mùi rượu nặc nồng,
họ đề nghị : - Để tụi này đưa chú về
đình. Năm Từ mắt trợn trừng, vùng ra
hét to : - Về đâu ? Người ta đi kiếm
thằng Nhành mà về đâu ? Nó đi lạc đâu rồi.Hu...Hu...
Con ơi là con... Rồi tiếp tục chạy, tiếp tục
kêu, tiếp tục khóc. Lên đến gò Đồng Mả,
Năm Từ kiệt sức, ngã lăn dưới gốc
cây da rồi ngủ thiếp đi. Năm Từ không biết
rằng mình đã tìm ra được một lối thoát
! Từ đó, lâu lâu nhớ con, Năm Từ
" lên " một cơn say dậy xóm dậy làng...Đó
là lúc mà cây đèn dầu của Năm Từ được
vặn cho sợi tim lú lên cao thật cao để tìm ngọn
lửa, ngọn lửa mà người ta đã cướp
mất. Năm Từ lúc nào cũng kết thúc cơn say ở
gò Đồng Mả, làm như tiềm thức dẫn
Năm Từ đến đó là cuối đường……... -oOo- Yên được đôi năm gì đó rồi
lại thấy có giặc lại. Quân đội quốc
gia cũng đóng đồn trên đất ông đốc-phủ,
chỗ tây đóng hồi đó, nhưng đào hào đấp
bờ kiên cố hơn. Dân chúng vẫn ở chung quanh, không
thay đổi. Chỉ thay đổi là bây giờ không phải
Việt Minh đánh với Tây mà là Việt Cộng đánh
nhau với Quốc-Gia. Đánh nhau đâu ở trong xa, thật
xa đến nỗi không nghe tiếng súng. Chỉ nghe đồn
khi có đụng độ lớn ở đâu đó, miệt
Trảng Nhỏ hay miệt Giồng Riêng. Chớ tại làng
của Năm Từ thì từ thời Tây đến bây giờ
chưa biết mùi giặc ra làm sao hết. Rừng cây dầu ở gò Đình được
rông cho trống trải để dễ giữ an-ninh. Mấy
cây dầu lớn đều bị đốn hết, chừa
lại mấy cây con, to cở bằng bắp chân trở xuống.
Thành ra coi thật xơ-rơ. Hồi đó, rừng dầu vừa rậm
vừa cao, ôm lấy đình như để bảo vệ
cái phong khí u-tịch đã có từ thuở xa xưa. Ngoại
trừ khi cúng cầu an có rước hát bộ hát cho Thần
coi, và có làng xã dân chúng tham dự rộn rịp, hoặc những
khi cá nhân hay đoàn thể cúng bái tạ ơn Thần, ngày
thường đình là nơi trang nghiêm vắng lặng ít
người lui tới. Đối với dân làng, đó là
nơi linh thiêng cần phải có tính cách biệt lập. Một
phần vì vậy mà dân xóm Đình đều cất nhà cách
rừng dầu một khoảng khá xa, nằm thấp phía
dưới, và tin tưởng rằng có Thần ở trên
cao phò hộ. Bây giờ, rừng dầu bị chặt
đi, cây con lưa thưa chưa cao quá một sào. Cái
đình vì vậy nhô ra một cách trần tục, không còn gì
nét tôn nghiêm hết. Năm Từ thật đau lòng và bất
mãn. Mỗi một cây dầu bị hạ xuống là một
lần Năm Từ nghe xót xa. Những cây dầu thân to bằng
hai ba người ôm, thẳng đuồn đuột và cao
nhìn trặc ót, đã có từ thời ông cố ông sơ gì
tới giờ. Không phải vài ba chục năm mà
được như vậy. " Nó " đã biết
làng này từ thuở còn là một xóm nhỏ lèo tèo vài ba mái
nhà tranh vách đất nằm lúp xúp cạnh bờ sông,
đã nhìn cái xóm nhỏ đó từ từ lớn lên để
thành cái làng với đường ngang đường dọc,
với nhà gạch nhà lầu. Nó đã chứng kiến thế
hệ này nối tiếp thế hệ nọ, mỗi đời
người một vươn lên, từ mức dân quê dốt
nát tiến đến có người làm đốc phủ,
có người làm giáo sư, có người làm dược sĩ...Những
cây dầu đó thật sự đã sống với làng với
xóm với con người không khác gì các bô lão. " Nó "
đã thuộc vào " lịch sử " của làng này cũng
như khúc sông Vàm Cỏ nằm xa phía dưới kia. Đối
với Năm Từ, hạ những cây dầu cổ thọ
đó xuống cũng giống như mình tự cắt
đứt gốc rễ, những thứ đã bắt nguồn
từ sông ngòi ruộng đất của Tổ Tiên. Quí vô
cùng mà tụi nhỏ bây giờ đâu cần biết
! Công tác hạ cây đã được quyết
định bởi ông trung úy trưởng đồn và hội
đồng xã, sau khi nghiên cứu địa hình địa
vật tại chỗ ! Năm Từ có thắc mắc hỏi
ông chủ tịch xã - còn trẻ măng - thì được
ông này trả lời một cách thản nhiên rằng khu rừng
cây này chẳng liên hệ gì tới cái đình hết và ông Từ
giữ đình chẳng có trách nhiệm gì khác hơn là việc
thắp nhang cúng thần hằng ngày. Năm Từ làm thinh
nhưng lòng đầy cay đắng vì thấy rằng
làng xã thời nay không còn là một sự tiếp nối của
thời xưa cho nên phạm vi của cái đình đã bị
thu hẹp lại còn có cái nóc bên trên và cái nền ở
dưới ! Sau đó, ngoại trừ lúc lên đình thấp
nhang cúng nước, Năm Từ hoặc đi câu hoặc
lúc thúc ở trong nhà- một ngôi nhà nhỏ cột gỗ
ngói âm dương cất ở góc sân sau đình - chớ
không ra quét lá đều đặn như lúc trước nữa.Vì
vậy, đình càng u-trệ xơ-rơ hơn. Người
trong xóm biết Năm Từ bất-mãn, tuy rằng chẳng
nghe Năm Từ phân bua than thở với ai một lời. Một hôm, đang lúi húi quét dọn trong
đình, Năm Từ nghe có người gọi nhỏ từ
ngoài sân : - Chú Năm ! Chú Năm ! Nhìn ra, thấy một người đàn ông
lạ mặt, áo sơ-mi trắng quần tây đen, xách cạc-táp
có vẻ như một thầy thơ-ky.ù Năm Từ
bước ra hiên : - Ờ…Thầy hỏi chi ? Người đàn ông nhìn quanh trước
khi nói : - Tôi có cái thơ của thằng Nhành gởi
cho chú. Năm Từ nghe điến hồn như bị
sét đánh gần bên, bỏ rơi cây chổi lúc nào không biết.
Từ mười mấy năm nay, cái tên Nhành chỉ
được Năm Từ gọi trong cơn say – nghĩa
là miệng gọi nhưng tai không nghe và đầu óc không
nhớ – cho nên âm thanh đó bị dìm sâu trong tiềm-thức.
Bây giờ, trong lúc Năm Từ đang tỉnh táo mà âm thanh
thân yêu đó bỗng bật lên quá nhanh, quá mạnh và quá bất
ngờ, làm Năm Từ choáng váng đứng không vững ,
tưởng chừng như mình đang trong cơn say ! Một
lúc sau, Năm Từ có cảm giác như vừa ngoi lên khỏi
mặt nước, nói bằng một giọng trống rỗng:"
Vậy là nó còn sống !" Người đàn ông bứơc lại gần
: - Dạ. Nó đang công tác ở ngoài đó và vẫn
mạnh khỏe. Nó nhớ chú lắm và thường hay nhắc
tới chú. Năm Từ nghe lòng ruột rã ra từng mảnh.
Hình ảnh thằng con hiện về trong đầu thật
rõ nét làm như nó chưa bao giờ rời khỏi vòng tay của
mình. Năm Từ cười như mếu : - Vậy hà ? Ngừng một lúc rồi tiếp : - Mời thầy qua nhà tôi uống nước. Vào nhà, Năm Từ rót trà mời khách : - Thầy uống miếng nước. Người đàn ông cười hiền hòa
: - Tôi tên là Qui. Bạn bè kêu là Sáu Qui. Chú cứ
gọi tôi là thằng Sáu hay thằng Qui gì cũng được.
Một lúc sau, Sáu Qui mở cập lấy
thơ đưa cho Năm Từ : - Thằng Nhành ra ngoài đó được
cho đi học lại. Bây giờ, chữ nghĩa nó đạt
lắm. Năm Từ cầm
lấy thơ mà tay run-run. Lật qua lật lại một
lúc rồi trao cho Sáu Qui : - Tôi dốt. Không
biết đọc. Thầy đọc tôi nghe coi. Sáu Qui hớp một
ngụm trà rồi đọc thơ. Năm Từ cầm
chén trà hớp từng hớp nhỏ, đầu gật gù
giống như người ta đang thưởng thức
trà. Thật ra lòng Năm Từ vừa mở rộng sung
sướng lại vừa cảm động miên man…Cây
đèn dầu "Năm Từ " bỗng thấy sợi
tim lú lên cao, đầy hy vọng. Bởi vì có người
vừa bật diêm quẹt gần đâu đó ! Thơ không dài.
Đại khái là thằng Nhành vẫn mạnh giỏi, công
tác tốt. Nó sẽ trở về một ngày gần
đây. Điểm chánh yếu trong thơ là nó gởi gấm
Sáu Qui cho tía nó. Cuối thơ, nó viết :"Càng nhớ
tía bao nhiêu, con càng có bổn phận phải kiên trì đấu
tranh để đem lại hòa bình cho xứ sở ".
Nghe đọc thơ xong, Năm Từ ngồi lặng yên.
Làm như là để cho nó ngấm từ từ vào người
cái ngạc nhiên, cái khoái trá, cái hãnh diện, cái sung sướng… Sáu Qui cũng không
nói gì, ngồi nhìn thẳng ra bìa rừng. Bây giờ cây nhỏ
lưa thưa nên thấy tuốt xuống hố quằn và
con đường đất dẫn lên lộ cái. Có tiếng
chim kêu trong lá và tiếng con gà mái tục-tục gọi con
bên hè. Buổi sáng trên đình thật là êm ả. Không khí mát
rượi trinh nguyên…Bỗng Sáu Qui hỏi Năm Từ : - Nghe nói rừng dầu
rậm lắm mà sao bây giờ coi xơ-rơ vậy chú ? - Ờ…Họ
đốn hết lấy gì mà rậm. Sáu Qui hỏi tiếp : - Ai đốn ? Mà tại sao phải đốn
? Hả chú ? Giọng Năm Từ cay cú : - Ối…Thì chánh quyền đốn chớ ai
dám vô đây mà đốn. Họ nói để giữ an-ninh
gì gì đó không biết nữa ! Sáu Qui chắc lưỡi : - Thiệt là bậy ! Đâu phải nhờ
đốn hết rừng mà giữ được an ninh
đâu chú. Đình chùa là tượng trưng cho sự tự-do
tín ngưỡng của quần chúng nhân dân, phải
được nhà nước tôn trọng. Xúc phạm những
nơi đó mới là chuyện làm mất an ninh đó chú ! Năm Từ thật hả dạ khi nghe Sáu
Qui lý luận như vậy và bỗng thấy người
đàn ông mới quen đó thật là gần gũi với
mình, làm như đã biết nhau từ lâu. Giọng Năm Từ
trở nên thân mật hơn : - Đúng vậy. Họ có nghỉ như mình
đâu ! Ngừng một chút rồi tiếp : - Vậy chớ thầy Sáu quê ở đâu ? Sáu Qui bật cười : - Chú kêu tôi bằng thầy nghe cách biệt quá
chú ! Kêu tôi bằng cháu đi, như tôi là anh của thằng
Nhành vậy. Năm Từ nghe lòng thật ấm cúng : - Ờ…cũng được. Vậy quê cháu
ở đâu há ? Sáu Qui vắn tắt kể lại lai-lịch
của mình : cha mẹ gốc miền Trung, vào Dầu Tiếng
làm phu cạo mủ cao su ; Sáu Qui lớn lên ở đó,
đi kháng chiến rồi tập kết đi luôn tới
giờ ; kỳ này vào Nam để công tác ba tỉnh miền
Đông ; Sáu Qui hành nghề châm cứu để độ
nhựt…Rồi Sáu Qui kết : - Trong thời gian công tác ở vùng này, tôi chỉ
biết trong cậy vào sự đùm bộc giúp đỡ của
chú thôi. Năm Từ bỗng thấy như
được giao một trách nhiệm, tuy không nguy hiểm
bằng công tác đưa rước người qua sông hồi
thời kháng chiến chống Pháp, nhưng cũng không kém
phần quan trọng . Hình ảnh thời " oanh-liệt
" hồi Năm Từ còn là Năm Câu " đưa
kháng chiến qua sông như ăn cơm bữa "…hiện
về thật rõ nét trong đầu Năm Từ. Giống
như mới hôm qua hôm kia ! Mắt Năm Từ bỗng
sáng lên, máu trong người bỗng chảy mạnh hơn
và chỉ trong có mấy giây thôi mà Năm Từ bắt gặp
lại cái cảm giác hăng hăng của thời trẻ.
Năm Từ hạ giọng : - Ờ…Cứ ở đây với tôi. Yên chí !
Có Thần linh phò hộ, đừng có lo ! Ngừng một lúc rồi tiếp : - Cháu à ! Hễ mình nghĩ phải làm phải
thì chuyện gì cũng được Ơn Trên giúp đỡ
hết ! Từ đó, Sáu Qui nghiễm nhiên trở thành
cháu bà con của Năm Từ. Cha Sáu Qui là anh bà con một
đầu ông cố với Năm Từ, lâu nay lưu-lạc
miệt Chợ lớn, bây giờ tìm riết mới gặp
lại nhau. Năm Từ dựng đứng câu chuyện
như vậy để thiên hạ đừng ai để
ý. Người ta gọi Sáu Qui là thầy Sáu châm cứu và
nhà Năm Từ trở thành " phòng mạch bình dân ".
Thầy Sáu châm mát tay nên bệnh nhân tới lui cũng khá.
Lâu lâu, thầy Sáu vắng mặt vài hôm. Nghe nói thầy còn
nhiều phòng mạch ở các tỉnh khác, bỏ bịnh
nhân không đành… Thời gian qua mau. Việt Cộng đánh
càng ngày càng gần. Tuy chưa nghe tiếng súng nhưng dân
làng biết như vậy bởi vì người ở các
vùng đó tản cư về đây càng ngày càng đông. Và họ
đưa tin còn nhanh hơn bưu điện ! Quân đội Mỹ kéo tới đóng đồn
tuốt trên gò Đồng Mả. Không phải tại gò
Đồng Mả, mà là ở khoảng giữa gò Đồng
Mả và xóm Lò Gạch. Ở đó cũng có một cái
gò, người Mỹ dùng mấy đoàn xe cam-nhông chở
đất đỏ từ đâu về đổ lên
đó và máy ủi đất đấp vung lên cho gò thêm cao.
Chỉ có mấy hôm mà gò đó đã trở thành điểm
cao nhứt làng. Cái gò mới đó không có tên, nhưng nó
được dân làng gọi là " thành Mỹ ", bởi
vì có hầm hố bờ đê kẽm gai thật kiên cố
! Mỹ kéo về đó mấy cây đại-bác. Đêm
đầu tiên Mỹ bắn đại-bác, dân làng đang
ngủ bỗng giật mình ôm nhau tưởng đâu trời
sập, trẻ con khóc điếng lên như bị ai cắn.
Xưa nay làng này chưa từng nghe tiếng nổ to
như vậy. Sau tiếng nổ điếc con rái là tiếng
đạn bay nghe cái ào trên đầu làm tóc gáy dựng lên.
Dân làng bắt đầu thấy cuộc đời này không
còn yên ổn nữa. Quân đội Mỹ thường bắn
đại-bác về đêm. Nghe riết rồi cũng quen,
nên không còn ai để ý. Đến một hôm đó, đại
bác nổ ban ngày. Thiên hạ bàn-tán nho nhỏ với nhau :
" Chắc Việt Cộng di quân ban ngày nên mới bị
pháo như vậy ". Rồi sau đó, ngày đêm gì cũng
có tiếng đại bác. Và dân làng bắt đầu nghe xa
xa tiếng súng đụng độ giữa hai bên… Đến khi Việt Cộng bắt đầu
pháo kích vô làng thì không thấy thầy Sáu châm cứu trở
về phòng mạch ở đình nữa. Năm Từ cũng
không biết " thằng cháu " đi đâu, đành nói
với hàng xóm : " Nó về dưới Chợ lớn chắc
bị bắt quân dịch luôn rồi ". Nói như vậy
chớ Năm Từ biết mình bị Sáu Qui bỏ rơi,
cũng giống như thằng Nhành hồi đó. Một hôm, vào quá nửa đêm, Việt Cộng
pháo vô xóm Đình. Một trái rớt xuống sau đình, tiếng
nổ to đến mức độ Năm Từ rớt
từ ghế bố xuống đất. Bầy gà sau nhà
kêu lên oang-oác. Năm Từ mở mắt nhìn quanh : bóng tối
còn nguyên như cũ, vậy là trái đó không rớt trúng
nhà mình ! Rồi Năm Từ mò mẫm trèo lên ghế bố,
càu nhàu : " Mỹ ở tuốt gò Đồng Mả sao
không pháo. Pháo chi xóm Đình chẳng có con mẹ gì hết
".Sáng hôm sau, thấy nửa mái đình phía sau bay mất,
cột kèo đổ nát tan hoang. Năm Từ nghe lòng đau
như cắt. Và chua chát nghĩ : " Thần Thánh thời
nay cũng không được người ta để cho
yên ! " Tuy nhiên, vẫn tin tưởng rằng những
ai xúc phạm tới đình sớm muộn gì cũng sẽ
bị Thần quở. Sau đó đình không được sửa
chữa lại. Người ta nói chánh quyền quốc gia
còn quá nhiều việc cấp bách để làm. Tình trạng
đổ nát đó kéo dài đến ngày ba mươi tháng
tư bảy mươi lăm… -oOo- Bây giờ mới thật là yên giặc. Không
còn nghe một tiếng súng. Chỉ nghe tiếng loa phát thanh
của nhà nước cách mạng. Cũng uềnh oang
như ngày xưa khi trong làng có gánh cải lương… Không thấy thằng Nhành về. Cũng không
thấy Sáu Qui. Chỉ thấy người lạ ở
đâu tới tiếp thu làng xã. Hỏi ra là dân Bù Lu hoặc
Trảng Nhỏ xa xa… Không khí trong làng thật là rộn rịp.
Không phải do dân trong làng tạo ra sự rộn rịp
đó như trước đây vào dịp Tết hay dịp
cúng đình cầu an. Sự rộn rịp đó do số
người mới đến cầm quyền chạy tới
chạy lui gắn loa trương cờ,căng biểu ngữ,
vẽ khẩu hiệu. Ngoài một số thanh niên " nhào
" theo để dựa hơi (thiên hạ gọi là
" mấy thằng ba mươi ") hầu hết
dân trong làng chẳng thấy ai nhúc-nhích. Họ giống
như khán giả được cho coi hát khỏi trả
tiền. Thành ra họ yên tâm nhìn cuộc diện thay đổi
một cách bàng quan. Và nghĩ một cách đơn giản
: " Hết bị pháo kích, con cái khỏi phải đi
lính…vậy là phước lắm rồi ! ". Chẳng dè
làm " khán giả " chỉ được có năm bảy
hôm gì đó, rồi là họ bị gọi đi đăng
ký, đi báo công báo tội , đi học tập nghị quyết…Riết
rồi họ trở thành " đào kép trên sân khấu cách
mạng " lúc nào không hay ! Một loại đào kép không
thuộc tuồng tích, nhưng lúc nào cũng được
mấy ông bầu cách mạng bắt thủ vai chánh trong mọi
vở bi hài kịch của họ : vai " nhân dân làm chủ
" ! Đình bị lấy làm hội trường.
Nửa phía sau đổ nát vẫn để nguyên như vậy.
Bàn thờ Thần, cây lộng cây phướn…được
dọn hết vào nhà sau. Làm như là đồ riêng của
Năm Từ ! Hai " ông hổ " bằng gỗ ngồi
hầu trước bàn thờ Thần, bị liệng ra
sau hè, nằm chỏng gọng. Công tác dọn dẹp
đình được mấy " ông cách mạng " tự
tay làm lấy trong lúc Năm Từ bận giăng câu bên kia
sông. Bữa đó, đi câu về đến
dưới dốc, Năm Từ chợt nhìn thấy lá cờ
đỏ sao vàng phe-phẩy trên đầu cột trước
đình. Cột cờ này xưa nay chỉ dùng để
kéo lá phướn của Thần khi cúng lễ. Thời
quốc gia, ngay cả thời Tây, chưa ai dám phạm
thượng treo ở đó lá cờ nào khác. Năm Từ
nổi nóng, bươn bả chạy lên đình. Ở
đó, bây giờ giống như mấy nhà xưa có đám
cưới. Chỉ khác là nhà có đám cưới người
ta kết bông bằng vải tây điều treo có tua có tụi,
còn đây thì căng vải đỏ sơn chữ vàng tứ
phía. Bên trong, trống bóc. Trên vách ngăn ở
giữa đình có lá cờ đỏ sao vàng với ba khuôn
hình treo ngang nhau. Năm Từ nhìn ra Hồ Chí Minh còn hai hình
kia là một thằng… tây râu xồm tóc dài và một thằng…
tây râu ngắn đầu sói. Thiên hạ đang lúi húi quét dọn.
Năm Từ
la lớn : - Tụi bây làm gì vậy ? Ai cho phép tụi bây
vô đây ? Bộ muốn phá đình hả
? Cả bọn ngừng tay, ngạc nhiên. Một
thằng hỏi : - Chú không hay gì à ? Ủy ban nhân dân biểu lấy
đình làm hội trường. Năm Từ trừng mắt : - Làm cái giống gì ? Tên đó giải nghĩa : - Làm hội trường. Nghĩa là làm chỗ
để nhân dân hội họp học tập ! Trong một thoáng, Năm Từ bỗng nhớ
lại câu nói của Sáu Qui, nhớ rõ như đã học
thuộc lòng. Năm Từ nói ra câu đó như trả bài: - Đình chùa là tượng trưng cho sự
tự do tín ngưỡng của quần chúng nhân dân, phải
được Nhà Nước tôn trọng. Xúc phạm những
nơi đó là chuyện làm mất an ninh ! Tụi bây hiểu
chưa ? Cả bọn bỗng phá lên cười
như đang coi một màn hài hước ! Năm Từ
"phẫn nộ xung thiên" chụp một cây chổi
đập túi bụi lên tụi "cách mạng" vừa
đập vừa la : - Tụi bây giỡn mặt với tao hả
? Tây, tao còn không sợ ! Mỹ, tao còn không sợ ! Huống
chi cái giống tụi bây. Đi ! Đi ra khỏi chỗ
này ! Rồi Năm Từ cầm chổi chỉ
ra cột cờ : - Ra mà lôi lá cờ đó xuống. Ở
đây không ai được phạm thượng hết ! Lúc đó, coi Năm Từ thật "oai
phong lẫm lẫm". Mấy thằng "cách mạng"
kéo nhau chạy biến về hướng ngã ba lộ
cái,làm lũ chó xóm Đình chạy theo sủa rân ! Thấy không còn ai để hạ lá cờ,
Năm Từ đành đi ra cột cờ để tự
tay tháo gỡ, nách vẫn cập cây chổi vì thói quen quét dọn
trong đình. Năm Từ phải mất một thời
gian ngắn để kéo lá cờ xuống, vì sợi dây
treo cờ bị kẹt trong rỏ-rẻ trên đầu cột.
Trong khi Năm Từ đang gom tóm lá cờ thì có hai xe
cam-nhông chạy ù tới gò Đình, ngừng ở bìa rừng,
đổ xuống hai toán bộ đội súng khua lách-cách.
Họ lom khom chạy thật nhanh, dàn trận bao vây đình
giống như sắp tấn công một đồn bót của
Mỹ Ngụy ! Trên nền xi măng cao của kỳ-đài,
Năm Từ chống cây chổi, nhìn cảnh tượng
đó mà tự hỏi: " Tụi nó làm cái giống gì vậy,
không biết ?". Yên lặng một lúc. Có vài tiếng chó sủa
vẩn vơ xa xa. Chim vẫn kêu trong
lá. Mấy con rắn mối rượt nhau trong lớp lá dầu
khô, nghe sột soạt. Làm như chẳng có chuyện gì xảy
ra trong đình ! Bỗng, hai thằng bộ đội đứng
lên chạy thẳng vào sân từ hai ngã đối diện,
chĩa súng vào Năm Từ, quát lớn : - Bỏ khí giới
xuống ! Đầu hàng ngay ! Chống phá cách mạng phải
không ! Bấy giờ,
Năm Từ mới hiểu : té ra tụi nó bao vây mình ! Nhìn
xuống cây chổi đang cầm trong tay, Năm Từ bật
ngửa cười khan. Thì ra tụi nó sợ…cây chổi ! Thừa lúc Năm
Từ cười, một tên bộ đội phóng lên trở
bán súng đập vào lưng làm Năm Từ văng ra khỏi
kỳ đài té xấp xuống đất bất tỉnh.
Hai đứa vội vàng đè lên người rồi trói
quặt hai cánh tay về phía sau giống như người
ta tréo cánh con gà sau khi đã cắt cổ. Chừng đó,
hai toán bộ đội mới kéo vào tập trung quanh kỳ
đài để nhìn cho rõ " tên phản-động".
Người trong xóm thấy chộn rộn cũng chạy
ra, đứng xa xa nhìn. Khi thấy Năm Từ bị lôi
ra thảy lên xe , người ta mới biết là Năm Từ
bị bắt . Trong thời gian
Năm Từ bị giam trên tỉnh, Tửng Gòn đóng cửa
tiệm cà-phê hết mấy bữa để lên nuôi bạn
và nghe ngóng coi có lo được gì không. Nhờ đó mà dân
trong làng mới biết là Năm Từ bị hai tội: chống
phá cách mạng và ngoan cố không chịu khai tên họ thật
mà cứ dùng…bí danh " Năm Từ " ! Nghe như vậy,
ai cũng bất nhẫn bởi vì ai cũng biết là
Năm Từ đã làm rớt dưới sông thẻ căn
cước từ thời ông Diệm,rồi từ đó
trong mình không có một tờ giấy lộn. Ngoài ra, từ
mấy chục năm nay, từ hồi nhỏ, hồi còn
là thằng Năm, đến thời lớn lên làm thợ
câu, rồi về già vô đình làm ông từ…chưa nghe ai gọi
Năm Từ bằng tên trong khai sanh, thì lấy gì để
Năm Từ nhớ ? Còn chuyện chống phá cách mạng
thì thật là bá vơ bởi vì "cha con thằng chả
làm giao liên cả mấy chục năm, rồi còn
đưa thằng con đi tập kết nữa lận
!". Bàn qua tán lại để rồi người nào cũng
chắc lưỡi lắc đầu, chớ chẳng biết
làm sao hết. Một hôm, Sáu Qui
đi với hai tên hộ vệ cầm súng bá đỏ,
vào thăm Năm Từ trong trại giam. Sáu Qui nói : - Tôi có ghé đình thăm chú, mới hay vụ
này. Mấy đồng chí đó bậy quá ! Chú cũng đừng
buồn. Rồi ta sửa sai thôi ! Năm Từ ngồi nghe, chẳng nói chẳng
rằng. Nhớ lại ngày nào mình đùm bọc Sáu Qui và câu
mà mình thường nói cho nó nghe " hễ mình nghĩ phải
làm phải thì lúc nào Ơn trên cũng phò hộ"…bây giờ
sao thấy nó trật lất ! Cũng như chuyện chiếm
đình treo cờ…rồi cũng chẳng thấy thằng
nào bị Thần vặn họng hết. Riết rồi chẳng
biết đâu mà rờ… Sáu Qui lấy trong cập ra một khuôn kiếng
trao cho Năm Từ : - Đảng và Nhà Nước cấp cho chú bằng
khen đã giúp cách mạng. Biết chú không có phương tiện
nên tôi lộng kiếng bằng khen luôn cho chú để chỉ
cần treo lên thôi. Năm Từ cầm lấy khuôn kiếng,
nhìn bằng khen có đóng mộc đỏ như nhìn tờ
giấy trắng bởi vì không biết chữ. Rồi cũng
không nói gì. Sáu Qui lại tiếp : - Phần tôi, tôi xin tặng chú chân dung bác Hồ
dệt trên lụa. Sáu Qui cầm cuộng lụa xổ ra trước
mặt Năm Từ, khoe : - Dệt ở bên Trung Quốc lận. Mới
nhìn tưởng hình chụp, phải không ? Năm Từ cầm lấy chân dung cuốn lại,
hỏi : - Còn…thằng Nhành ? Sáu Qui đốt điếu thuốc, hít mấy
hơi rồi mới nói : - Thằng Nhành chết lâu rồi ! Năm Từ nhìn Sáu Qui, tưởng mình nghe lộn
: - Chết ? Sáu Qui lại hít mấy hơi thuốc : - Chết hồi mới ra Bắc. Vai Năm Từ bỗng xuôi xuống. Lưng Năm Từ bỗng cong lại. Cổ
NămTừ bỗng không còn giữ nổi cái đầu. Một
lúc lâu, sực nhớ ra, Năm Từ hỏi : - Còn cái thơ nó viết
cho tôi hồi đó ? Sáu Qui nuốt
nước miếng mấy lần mới trả lời : - Thơ đó do
tôi viết. Thấy Năm Từ
không tỏ phản ứng gì hết, Sáu Qui tằng hắng
như để lấy can đảm : - Chú đừng giận.
Hồi đó phải làm như vậy để có ngày hôm
nay : cách mạng thành công ! Trong cuộc đấu tranh giải
phóng, chú đã đi hàng đầu và đã có công lớn
đối với cách mạng. Nhân dân biết ơn chú nhiều
lắm ! Năm Từ vẫn
im lặng. Nói gì nữa giờ, khi mà tất cả đều
sụp đổ, tất cả đều đảo lộn,
tất cả đều gian xảo ? Mà mình thì đúng là một
thằng ngốc ! Bỗng Năm Từ bật cười
một mình, rồi " Ờ..." một tiếng cho lấy
có, nghe như tiếng "ợ" của người
ăn không tiêu... Vậy là nhờ sự
can thiệp của Sáu Qui, Năm Từ được thả
về, ôm theo cái bằng khen và chân dung Hồ Chủ Tịch.
Bây giờ, đình đã thật sự trở thành hội
trường và căn nhà phía sau là phòng lương thực.
Tất cả đồ đạc đều được
dọn hết về nhà riêng của Năm Từ ở cạnh
bờ sông, trong thời gian Năm Từ nằm ở trại
giam trên tỉnh. Từ ngày trở về
làng , Năm Từ cứ lầm-lầm lì-lì, không giao thiệp
nói chuyện với ai hết. Kể cả với Tửng
Gòn ! Nhưng, sau khi nhậu ba sợi rồi là lè nhè nói hoài
không ngừng và lâu lâu cười lên hô hố. Dân trong làng mới
đầu còn ngạc nhiên thương hại, nhưng riết
rồi họ cũng quen. Cho nên chẳng ai để ý thấy
một con chó hoang đi theo Năm Từ mỗi ngày. Và khi
Năm Từ đứng xiêu xiêu, chỉ đông chỉ tây
nói láp dáp, nó vểnh tai nhìn Năm Từ, đầu nghiêng
nghiêng đuôi ngoắt ngoắt, ra điều "ta đây
hiểu hết" ! Năm Từ cũng không nhớ con
chó đã theo về " ở " với mình từ hồi
nào. Chỉ biết có cho nó ăn uống đều đặn,
đi đâu thì nó đi theo như đi "hộ tống",
đi câu bên sông thì nó giữ nhà, tối ngủ trên ghế bố
thì nó nằm khoanh phía bên dứơi. Năm Từ thường
nói chuyện với nó như nói chuyện với một con
người. Một hôm, nhậu
ba ngù rồi, Năm Từ mang chân dung Hồ Chí Minh tòn teng
trước ngực, vừa đi vừa hô "Hồ Chủ
Tịch muôn năm !" giống như đi mít tinh. Ngả
ngả nghiêng nghiêng đi dài theo lộ cái. Chẳng thấy
ai đi theo, kể cả trẻ con vì tụi nó bây giờ
bận công tác "khăn quàng đỏ". Chỉ có con
chó là lẽo đẽo đi sau, cách vài ba bước giống
như cái bóng. Một lúc, Năm Từ dừng lại nhìn
nó, đưa ngón tay trỏ lên điểm điểm : - Mầy... mầy...
ăn ở còn có nghĩa có tình chớ không phải như tụi
nó... Mầy còn hơn tụi nó nhiều lắm ! Nghe không mậy,
cẩu ? Rồi cười lên hô hố khoái trá. Xong chỉ
vào chân dung Hồ Chí Minh phân trần : "Mầy thấy
không ? Hồi tao còn trẻ, tao gọi ổng là cụ Hồ.
Bây giờ tao già rồi mà thằng chả lại trẻ ra
bởi vì tao chỉ còn gọi bằng bác Hồ thôi !
Ngược đời vậy đó, mậy cẩu !
"Nói xong, Năm Từ ưỡn ngực hô to : "Hồ
Chủ Tịch muôn năm". Con chó bỗng sủa lên quấu
quấu. Năm Từ ngạc nhiên, trợn mắt nhìn nó, lại
đưa ngón tay trỏ lên điểm điểm : - À ! Ạ ! Biết sủa như vậy là mầy
giống tụi nó y chang rồi còn gì ? Rồi vừa xiêu xiêu bước đi,
Năm Từ vừa nói lầm bầm : "Đời bây
giờ ... thiệt ... không biết đâu mà rờ ... Tới
con chó cũng không giống ai hết !" Cuộc "mít-tinh cách mạng" một
người một chó đó kết thúc ở gò Đồng
Mả. Năm Từ mệt lả, ngã đại xuống
một khoảnh đất còn trống giữa mấy mả
vôi mả đá. Con chó ngoắt đuôi, ngập ngừng một
lúc, xem "động tịnh" rồi mới bước
nhẹ tới nằm kế bên ! -oOo- Cũng trong đêm đó, chừng quá nửa
đêm, đình và rừng dầu bỗng phát cháy. Đám cháy
lớn đến nỗi dân chúng chỉ dám đứng xa
mà nhìn. Thiên hạ kéo ra coi đông nghẹt ở ngã ba lộ
cái. Từ đó nhìn xuống đám cháy, thấy giống
như người ta đốt đồ thợ mã để
cúng cô-hồn... Trong gian nhà tranh nằm cạnh bờ sông,
Năm Từ ngồi trên ghế bố hút thuốc trong bóng
tối mà vẫn thấy rõ đám cháy như đang nhìn ngay
trước mặt . Tiểu Tử |