Mùa thu cuộc t́nh
Bữa ăn trưa đó của ông Năm thật giản
dị : một trái cà tô-mát không dầu không dấm và một
miếng thịt ḅ nhỏ bằng bàn tay nướng trên vỉ
sắt không muối không bơ. Quá giản dị ! Nhứt
là hôm nay thứ bảy, không phải đi làm. Nghĩa là có
dư dả th́ giờ để làm một món ǵ đó cho
có vẻ một bữa ăn cuối tuần. Cho nó khác với
ngày thường ăn vội ăn vàng cái ǵ cũng
được. Thật quá giản dị ! Nhứt là ông
Năm sống một ḿnh, không bị phiền toái bởi
những chuyện vụn vặt lỉnh-kỉnh phải
làm vào cuối tuần của người có gia đ́nh. Ở
Paris này mà sống một ḿnh như ông Năm th́ thời
gian không biết phải làm ǵ cho hết chớ đừng
nói không có th́ giờ để làm một bữa ăn cho
tươm tất vào trưa thứ bảy.
Nói rằng ông Năm không biết làm bếp cũng không
đúng. Hồi xưa, hồi c̣n ở bên nhà, thật t́nh
ông Năm không biết chiên một cái trứng gà. Ông chỉ
biết đi làm ngày hai buổi, c̣n việc bếp núc có bà
Năm lo hết. Bây giờ th́ khác. Ông cũng biết nấu
vài món thông thường và lâu lâu cũng biết " làm
" một nồi phở để đăi đôi ba ông bạn
già cùng lứa tuổi và cùng thân phận lưu vong…
Như b́nh thường th́ trưa thứ bảy, ông hay thả
xuống khu 13 la-cà ở nhà sách Khai Trí một lúc rồi sang
qua mấy cửa hàng nho nhỏ trên lầu Paris Stores để
coi có ǵ lạ không. Sau đó, ông mới tấp vô tiệm phở
để ăn trưa, có khi một ḿnh,nhưng thường
th́ với một vài người bạn gặp nhau ngoài phố.
Ở khu 13 vào trưa thứ bảy, không gặp người
này cũng gặp người nọ, bởi v́ ai cũng
đến đó để mua đồ, nói là " đi
chợ Tàu " chớ thật ra là để t́m lại một
chút ǵ hơi hướm của quê hương : những
khuôn mặt gần gũi (gặp ai cũng thấy quen quen
!), những món hàng c̣n giữ nguyên nét cũ (đ̣n chả
lụa vẫn phải có màu xanh của lá, con vịt quay vẫn
phải đỏ ao màu mật…) và những cái tên chỉ cần
đọc lên là đủ để gợi nhớ…
Hồi sáng này, ông Năm cũng đă đóng bộ để
đi khu 13. Trời đă sang thu, nhưng nắng c̣n thật
ấm. Cây marronnier nhà hàng xóm nằm ngay dưới cửa
sổ nhà ông Năm đă trở màu vàng. "Chắc lá
đă rụng đầy", ông Năm nghĩ vậy khi
đứng thắt cravate gần khung cửa sổ. Chỗ
ông cư ngụ là một studio nhỏ ở lầu ba khu
nhà cũ nằm sâu phía sau nhà thờ Sacré Coeur. Cây marronnier
che hết phía dưới thành ra từ cửa sổ nhà ông
Năm nh́n thẳng ra chỉ thấy bức tường
cao của khu nhà đối diện chắn ngang, chừa
phía trên bầu trời bị đóng khung h́nh chữ nhựt
bởi hai dẫy nhà dài. Trên nền trời đó, tuốt
phía xa, là nóc nhà thờ với cây thánh giá. Thành ra, thế giới
bên ngoài nh́n từ pḥng ông Năm chỉ c̣n lại vỏn vẹn
có cây thánh giá để cái nh́n c̣n có một điểm tựa
! Ông Năm theo đạo Phật, nhưng từ ngày dọn
về đây – năm sáu năm ǵ rồi – cứ nh́n cây
thánh giá riết mà ông có cảm tưởng như ḿnh đă
thành con chiên của Chúa ! Nhiều khi ông thấy cây thánh giá
thật là sinh động. Ông không hay rằng niềm suy
tư của ông đă gởi trên đó từ lâu…
Có lần, trong thư gởi về Việt Nam cho bà Năm,
ông viết : "Anh thừơng nh́n cây thánh giá đứng
cao ṿi vọi một ḿnh trên kia mà tự hỏi không biết
anh và cây thánh giá, ai cô đơn hơn ai ? Nhưng cây thánh
giá hăy c̣n giang tay ngạo-nghễ chớ anh th́ từ lâu rồi
anh đă buông tay đầu hàng số mệnh ! Tuy nhiên, ở
đây anh c̣n có cây thánh giá trứơc mắt để hứơng
về đó mà cầu nguyện, chớ ở bên nhà giờ
đây muốn cầu nguyện em phải hứơng về
đâu hả em ? Anh bỗng ứa nứơc mắt
thương em vô cùng… Ở ngay trong ḷng quê hương mà thiếu
thốn đủ thứ, đến nỗi điểm tựa
cho niềm tin mà c̣n không có th́ em sống ra sao, em hả
?" Đối với ông Năm, cây thánh giá trên chót nhà thờ
Sacré Coeur mặc nhiên đă trở thành một vật ǵ thật
gần gũi, thật trần gian, thật ngừơi, và
là động cơ khơi nguồn kỷ niệm…
Hồi xưa, ông làm việc cho Air France ở Sàig̣n. Đời
sống rất thoải mái, nhưng hai vợ chồng lại
không có con. Chạy thầy chạy thuốc măi rồi mới
biết tại v́ tử cung của bà Năm nằm lệch.
Điều này làm bà Năm khóc hết nứơc mắt.
Tuy nhiên, hồi đó c̣n trẻ nên cũng dễ nguôi, hai vợ
chồng chẳng quan tâm cho lắm. Lần hồi, tuổi
đời chồng chất, sự không có con đă trở
thành một vấn đề cho hai vợ chồng. Mặc
dù ông Năm không bao giờ nhắc đến chuyện
đó, bà Năm vẫn khơi ra để nhận lỗi
về ḿnh. Mặc cảm đó làm cho bà lúc nào cũng ân hận,
áy náy. Rồi cái ǵ hư, cái ǵ trật, cái ǵ bậy ở
trong nhà dù là do lỗi những ngừơi giúp việc, bà cũng
nhận hết. Ông Năm phải mất một thời
gian dài để giải thích, khuyên lơn, an ủi bà
Năm mới lấy lại đựơc quân b́nh. Có hôm,
trong lúc hai vợ chồng đi dạo trên băi biển Vũng
Tàu, nh́n thấy mấy gia đ́nh đông con đùa giỡn
vui vẻ, bà Năm chợt thở dài than : "Nếu không
phải tại em th́ bây giờ hai đứa ḿnh đâu có
bơ vơ như vầy !". Ông Năm choàng tay ôm vai vợ
xoay ngừơi lại để nh́n sâu vào mắt : "Em
à! Ḿnh không có con, nhưng ḿnh c̣n có nhau. Đó là Trời
thương lắm rồi, em c̣n đ̣i hỏi ǵ nữa ?
Thử tưởng tượng một ngày nào đó không
c̣n có nhau nữa th́ sao ?". Bà Năm gật gật đầu
nhưng chẳng bao giờ tưởng tượng đến
"cái ngày không c̣n có nhau" đó.
Vậy mà cái ngày đó đă đến cho ông bà Năm. Hai
năm sau ngày mất nước, trong chuyến vượt
biên ở Cà Mau, ông Năm đi thoát, bà Năm bị bắt
lại với một số người không may khác ! Ông
Năm sang Pháp, làm việc lại cho hăng Air France. Bà Năm nằm
tù hết mấy tháng. Được thả ra th́ nhà cửa
đă bị tịch thu, đành về quê ở G̣ Công làm
công nhân cho nhà máy xay lúa của gia đ́nh mà trong đợt
đánh tư sản đầu tiên, Nhà Nước đă tịch
thu để biến thành hợp tác xă. Từ đó, là những
chuỗi dài thương nhớ, là những lo âu dằn vặt,
là những lá thư nhiều ẩn nghĩa cho đúng
"văn phạm Nhà Nước". C̣n chuyện vượt
biên lần nữa là chuyện mà bà Năm không bao giờ dám
nghĩ đến ! Bên này, ông Năm chạy măi rồi cũng
được nhập cảnh gởi về, nhưng phía
bà Năm th́ gặp quá nhiều khó khăn trong hồ sơ
xin xuất cảnh, cứ bị kéo dài, kéo dài bằng những
chầu chực, bằng những lời hứa hẹn
suông và bằng mấy lần bị lường gạt…
Để cuối cùng, mấy năm sau, mới biết là
hồ sơ đă bị bác từ lâu ! Tin đó đến
với ông Năm bằng tờ giấy tập học tṛ
vàng như giấy súc mà trên đó bà Năm chỉ c̣n đủ
sức viết có mấy hàng… Vậy là vĩnh viễn không
c̣n có nhau nữa ! Ông Năm mất tinh thần hết một
thời gian dài. Sau đó, dọn về khu phố này t́nh cờ
cửa sổ mở về hướng nhà thờ Sacré
Coeur, để mỗi sáng trước khi đi làm ông nh́n
cây thánh giá một lúc, giống như một tín đồ
ngoan đạo…
Khi ông Năm mặc xong quần áo th́ trời cũng đă
gần trưa. Đốt điếu thuốc để
lên môi, ông đóng cửa bước chậm răi xuống cầu
thang, giống như đo từng nấc thang một ! Thật
ra, tại tánh ông Năm vốn đă trầm thêm tuổi
đă gần sáu mươi bắt ông phải cẩn thận
khi bước lên bước xuống. Ngoài ra, có ǵ phải
vội phải gấp khi mà chẳng có ai đợi ai chờ
? Đi khu 13 vào trưa thứ bảy đă thành một thói
quen, chẳng có ǵ phải náo nức. Bỗng nhiên, ông
Năm nhận thấy cuộc đời ḿnh sao thật vô
vị. Giống như tờ giấy trắng mênh mông trải
dài, thẳng băng, chẳng có một ḍng mực, chẳng
có một đốm màu, cũng chẳng có một vết
hoen ố. H́nh ảnh đó làm cho ông Năm dừng lại ở
giữa cầu thang, ngẩn ngơ một lúc như vừa
khám phá ra một điều ǵ quá rơ-rệt nằm ngay
trước mắt mà sao lâu nay ông không nhận thấy !
"Ḿnh đi làm đều đặn. Mỗi tuần xuống
khu 13 cũng đều đặn vào trưa thứ bảy.
Mỗi tối thứ hai đi ciné một lần v́ giá vé hạ.
Đêm nào cũng coi télé vào 8 giờ tối để theo
dơi tin tức, rồi đọc sách đọc báo đến
11 giờ rưỡi là tắt đèn ngủ. Đều
đặn. Đều đặn. Đến như cái cầu
thang này, ḿnh cũng đều đặn trèo xuống trèo
lên đến nỗi biết nó có bốn mươi tám nấc
! Vậy rồi thôi ! Rồi cứ như vậy cho tới
về hưu,tới chết !". Ông Năm hít hơi thuốc
thật sâu để thở khói ra thật dài. Ông làm mấy
lần như vậy, giống như đang t́m một
đáp số ! Rồi ông vỗ nhẹ bàn tay lên thành lan can
gỗ, tự nhủ "Thôi ! Đừng nghĩ tới nữa"
Ông tiếp tục bước xuống, nhưng bây giờ
sao thấy bước chân nặng hơn hồi năy nhiều…
Khi đi qua trước pḥng gác-dang, có tiếng gọi :
- Ông Georges ! Ông Georges !
Georges cũng là tên của ông Năm. Người Pháp phát âm
Năm thành Nam, nghe lơ lớ chói lỗ tai, nên ông lấy
đại tên Georges cho dễ gọi dễ kêu. Bà gác-dang
bước ra trao cho ông một điện tín, nói :
- Vừa mới tới. Tôi định lên nhà đưa cho
ông th́ ông xuống đây.
Ông Năm run tay mở bức điện tín. Gịng chữ ngắn
ngủn hiện lên nhảy múa : "Đă có xuất cảnh.
Lo vé máy bay cho em. Mai". Điếu thuốc trên môi bỗng
rơi xuống đất. Ông Năm có cảm giác như ḿnh
đang lên cơn sốt. Ông đọc lại điện
tín một lần nữa, hai tay phải gồng cứng lại
mới kềm được tờ giấy đứng
yên căng thẳng dưới mắt. Ông nói cho ḿnh nghe :
"Đúng rồi ! Bả được xuất cảnh
rồi !". Bà gác-dang nghiêng đầu lo lắng :
- Có sao không ? Có chuyện ǵ không ? Ông Georges ?
Tiếng bà ta lôi ông Năm về thực tại. Ông nh́n bà
ta, mỉm cười, rồi nắm lấy tay bà ta lắc
mạnh :
- Cám ơn bà ! Cám ơn bà nhiều ! Tôi thật không biết
nói ǵ cho phải. Bà thật tốt bụng ! Quá tốt bụng
! Cám ơn ! Cám ơn !
Giọng ông thật thành khẩn, làm như chính bà đă cho
giấy xuất cảnh ! Bà ta không hiểu ǵ cả, vừa
ngạc nhiên vừa buồn cười trước thái
độ của ông Năm. Bà ấp úng "Nhưng mà…
Nhưng mà…" trong lúc ông Năm buông bà ra để chạy
lên cầu thang. Nữa chừng, sực nhớ ra, ông dừng
lại nghiêng người nói vói xuống :
- Điện tín của vợ tôi ở Việt Nam. Bả
nói bả sẽ qua đây ở với tôi ! Cám ơn ! Cám
ơn nhiều !
Rồi ông phóng lên cầu thang, nhảy hai bậc một,
nhanh như sóc, nhẹ như hưu. Làm như ông mới có
hai mươi tuổi !
Vào pḥng, ông ngă người lên giường, thở hổn
hển. Cái tuổi hai mươi bất thần t́m lại
chỉ đủ giúp ông trèo hết bốn mươi tám nấc
thang thôi ! Một lúc sau, ông cầm điện tín lên, đọc
lại một lần nữa. Thật rơ ràng mà ! Đây nè,
hàng chữ không bỏ dấu "Da co xuat canh. Lo ve may bay
cho em. Mai"
Đọc là hiểu ngay ! C̣n Mai là tên của bả rồi,
chớ c̣n ai vô đây nữa ! Cái tên dễ thương mà
ḿnh đă thương từ mấy chục năm, không c̣n
lộn với ai được. Vậy là chỉ c̣n có vé
máy bay nữa là xong. Ông nhỏm người lên nh́n tấm lịch
tháng treo gần đó để thấy rằng ḿnh bỗng
quên mất hôm nay là thứ bảy ! Vậy phải đợi
thứ hai mới vào sở lo vụ này được. Ông
lại nằm xuống. Dễ thôi ! Nhờ thằng Durand
đánh cái télex là xong ngay. Ờ… nhưng ḿnh cũng phải
gởi cái điện tín về cho bả mừng. Tội
nghiệp ! Không biết ai chạy lo cho bả cái xuất cảnh,
chớ bả th́ lo khỉ ǵ được với cái tánh
hiền khô và nhát hít của bả. Nghĩ đến
đó, ông Năm bỗng thấy thương vợ vô cùng.
Cái người đàn bà hiền khô và nhát hít đó đă về
làm vợ ông từ hơn ba mươi năm, trước
sau như một, theo chồng như một cái bóng. Ngoài
chuyện không có con, chẳng thấy bao giờ bà làm bận
tâm ông. Con nhà giàu ở G̣ Công, học ở Marie Curie, vậy
mà cô gái có cái tên Trần thị Lệ Mai đó đă có một
quan niệm sống thật cổ điển, thật Á
đông. Và khi trở thành bà Trần văn Năm, luôn luôn bà
đối xử với bên chồng thật vuông tṛn và xem
việc nội trợ như một thiên chức ! Hồi
xưa, bạn bè vẫn nói là "thằng Năm trúng số
độc đắc" hoặc "đẻ bọc
điều mới có người vợ như vậy".
Ông th́ nghĩ rằng tại vợ ḿnh hiền khô và nhát hít
nên chẳng dám làm phiền ai bao giờ. Có lẽ nhờ vậy
mà ai cũng thương… Ông lại nhỏm dậy nh́n tấm
lịch. Trên đó ông có ghi bằng marker đỏ con số
10 to bằng nửa bàn tay ở gốc trái. Vậy mà cũng
đă mười năm xa nhau ! Mỗi năm mua lịch,
ḿnh ngồi nắn nót viết con số lên đó giống
như người tù bị lưu đày ghi số năm
mà ḿnh biệt xứ. Có khác là người tù c̣n biết ngày
được thả chớ c̣n ḿnh th́ mù tịt. Đă
tưởng vĩnh viễn sống một ḿnh rồi… chết
cũng một ḿnh trên đất lưu vong này, nào ngờ
Trời c̣n thương ḿnh nhiều quá ! Ông ngồi hẳn dậy
đốt điếu thuốc, khói thuốc thật
thơm thật ngọt. Vậy mà cũng đă mười
năm xa nhau ! Mười năm… lâu lắm chớ ! Vậy
mà sao vẫn thấy c̣n thương c̣n nhớ. Lạ quá !
Có phải như vậy người ta gọi là chung thủy
hay không ! Rồi ông nh́n quanh. Nhà cửa thiệt là lượm
thượm, phải dọn dẹp laị coi cho nó
được một chút. Vậy là ông đứng lên
đẩy ghế, đẩy bàn, quên mất là ḿnh c̣n mặc
bộ đồ lớn để đi khu 13 và làm như
bà Năm sắp qua tới bây giờ ! Vừa làm vừa nói
một ḿnh, lâu lâu ông ngừng lại hít một hơi thuốc
thật sảng khoái. Hai cái fauteuils này cho sát vào tường,
kê gần nhau để cùng ngồi coi télé. Cái télé nằm
đó được rồi. Cái bàn ăn nhích qua một
chút để có chỗ kéo cái nệm dưới gầm
giường ra. Bả trên giường, ḿnh dưới
đất, tạm ổn trong khi chờ đợi kiếm
nhà khác rộng hơn. Cái tủ búp-phê đẩy tới một
chút là nằm ngang với bàn ăn. Mẹ nó ! Coi vậy mà cũng
nặng ớn ! Ông đứng lên thở hổn hển,
nh́n quanh. Bây giờ coi có nét rồi đó. À ! Cái màn cửa sổ,
phải tháo xuống đem giặt, cho nó "sáng" ra mới
được. Rồi ông vào buồng tắm thay đồ.
Đồ đạc ở đây th́ sạch sẽ rồi,
khỏi lo. À ! C̣n cái tủ quần áo ở bên pḥng ngoài nữa.
Phải thu gọn lại cho có chỗ để bả
để quần áo chớ ! Ông bỗng ph́ cười. Làm
như ḿnh sắp cưới vợ vậy ! Mà thiệt !
Sau mười năm xa cách, gặp lại nhau cũng giống
như cưới nhau lần nữa chớ ǵ ! Ông soi
gương chải lại tóc. Tóc ḿnh mới có mấy sợi
bạc thôi. Mặt mũi hăy c̣n "nét" lắm, ai mà nói
ḿnh sắp sáu mươi ? Cô dâu qua đây thấy chú rể
như vầy là nh́n… rớt con mắt ! Ông Năm bỗng
nghe ḷng vui rộn ră, giống như tâm trạng ngày xưa,
thuở c̣n trẻ, lúc sửa soạn đi đến
nơi hẹn với người con gái tên Trần thị
Lệ Mai… ...Vậy là trưa thứ bảy này
ông Năm không thấy đói ! Tuy vậy, cũng phải
"bỏ bụng" một cái ǵ,v́ thói quen hơn là v́
nhu cầu. Ông mở tủ lạnh lấy một trái cà
tô-mát và một miếng thịt ḅ. Cà xắt khoanh, không dầu
không dấm, thịt nướng trần trên vỉ sắt
không muối không bơ. Làm cho "lấy có" và ăn cũng
cho "lấy có". Bởi v́ tâm hồn ông đang măi
phiêu bồng ở đâu đâu xa lắm, h́nh như là ở
G̣ Công quê vợ, ở Gia Định quê ḿnh, ở những
ngày đầu "hai đứa gặp nhau" (Tiếng
nói của t́nh yêu là một chuỗi dài im lặng !),ở rạp
hát bóng Đại Nam là nơi "hai đứa hẹn
ḥ" (Dù trời mưa anh cũng tới. Em nghe không ?), ở
Đà Lạt ít lâu sau đó. Chao ôi ! Đẹp quá ! Dễ
thương quá ! T́nh yêu là cái ǵ mà sao măi măi vẫn c̣n nguyên,
như mới hôm qua hôm kia… -oOo- Ông Năm lái xe lên phi
trường Charles de Gaulle lần này là lần thứ hai. Hồi
sáng, đă lên đó một lần, đợi cả tiếng
đồng hồ để được thông báo là chuyến
bay Air France từ Thái Lan qua sẽ đến trễ gần
tám tiếng. Nhờ là nhân viên của hăng nên ông Năm
được biết là máy bay bị trục trặc kỹ
thuật ở Karachi. Trở về sở làm, ông ngồi
đứng không yên, lâu lâu cứ nh́n đồng hồ. Bạn
bè trong sở thấy vậy thương hại, mỗi
người một câu an ủi trấn an. Có người
ngồi lại gợi chuyện tán dóc cho ông đỡ thấy
sốt ruột. Có người đặt tay lên vai ông bóp mạnh
: - Georges ! Đợi chờ
nhau mười năm mà mày c̣n chịu nỗi huống ǵ chỉ
có mấy tiếng đồng hồ nữa thôi. Can đảm lên chớ !
Vậy rồi thời gian cũng qua, chiều cũng xuống,
để ông Năm lái xe đi phi trường, ḷng náo nức
xôn xao trong sự đợi chờ kỳ diệu.
Vào phi trường, ông gắn thẻ nhân viên lên ngực áo
rồi đến quầy Air France hỏi thăm. Mô phật
! Lần này máy bay sẽ đến đúng giờ. Hai cô tiếp
viên trong quầy không quen ông Năm nhưng thấy đeo thẻ
Air France, nên cũng hỏi đẩy đưa :
- Ông chờ
đón bạn à ? Ông mỉm cười,
vừa bước đi vừa trả lời : - Không ! Tôi đón nhà tôi.
Chào hai cô. Phi trường giờ
này nhiều chuyến bay cùng đến một lúc nên người
đi kẻ lại tấp nập. Ông Năm ngồi uống
cà phê, hút thuốc, nh́n thiên hạ. Ông thấy ai cũng dễ
thương hết ! Ông muốn họ uống với ông một
tách cà phê, hút với ông một điếu thuốc lá. Cà phê expresso thật ngon. Khói thuốc Dunhill thật ngọt.
Tâm hồn ông Năm được trải rộng mênh
mông…
Lại nghĩ đến bà Năm. Bả điệu"
lắm ! Lúc nào cũng sạch sẽ gọn ghẽ. Tóc lúc
nào cũng chải gọn về phía sau rồi cuốn thành
một ṿng kẹp lại phía trên ót, thành ra khuôn mặt trái
soan và cái cổ tṛn lúc nào nh́n cũng rơ nét. C̣n về quần
áo th́ bả chẳng bao giờ mặc loại có màu sắc
sặc sỡ loè loẹt, luôn luôn hoặc đen hoặc
xanh đậm và nếu có bông th́ cũng phải tiệp
màu với nền vải và h́nh dáng phải nhă nhặn, nho
nhỏ tương xứng với tầm vóc của bả.
Hà ! Bả hiền khô và nhát hít vậy mà về vấn đề
ăn mặc bả khó dàng trời ! Người ta nói bả
có "gout". Ḿnh cũng nghĩ như vậy, nhưng nếu
bả không có thân h́nh đều đặn cân đối
th́ không biết cái "gout" để vào đâu cho nó nổi
! Ông hít một
hơi thuốc dài sảng khoái. Hồi đó sao mà ḿnh mê bả
quá, nhứt là đôi bàn tay có ngón thon dài sang trọng và cặp
mắt đen to như mắt đầm làm cho cái nh́n của
bả lúc nào cũng có vẻ như ngạc nhiên. Điều
lạ là sau này khi đă đứng tuổi, bả vẫn
c̣n giữ nguyên đường nét thời con gái. Thành ra lắm
khi nh́n bả, ḿnh muốn trêu chọc bằng câu "Gái
không con mà nom cũng ṃn con mắt", nhưng v́ sợ bả
buồn nên ḿnh nín thinh luôn ! Ông Năm ngừng suy
tư trên h́nh ảnh đẹp của bà vợ, mỉm
cười vu vơ. Lại hút thuốc, lại nh́n thiên hạ.
Hớp cà phê cuối cùng đă nguội ngắt mà sao vẫn
c̣n thấy ngon lạ lùng. Bỗng ông bật cười.
Sau bảy mươi lăm, sống với Việt Cộng
mà bả vẫn tiếp tục "điệu" như
thường ! Trong lúc người ta lôi quần áo cũ
rách ra bận và để mặt mũi tóc tai lôi thôi lếch
thếch cho có "tác phong cách mạng" th́ bả vẫn
gọn ghẽ sạch sẽ như thường, vẫn
chút đỉnh má hồng, chút đỉnh son, vẫn quần
dài áo ngắn tươm tất, mặc dù phải đạp
xe đi làm công nhân ở tổ may thêu xa bảy tám cây số.
Ḿnh hay trêu chọc bả bằng câu nói của Việt Cộng
"Song chân lư ấy vẫn không bao giờ thay đổi",
bả cười không nói. Vậy mà có hôm, bả trả lời
bằng một câu… xanh dờn : "Đàn bà phải biết
tự trọng. Làm như mấy bà cách mạng tóc tai xủ
xộp, quần áo xốc xếch rộng rinh hoặc ngắn
ngủn như mặt đồ khín, em làm không được"… Có tiếng nhạc
chuông d́u dặt, tiếp theo là giọng bổng trầm của
cô tiếp viên thông báo chuyến bay Air France số AF 199 đến
từ Thái Lan đă đáp xuống sân bay. Ông Năm đứng
lên trả tiền, xong đi vào phía trong qua ngă văn pḥng trực
của hăng. Ông nghe ḷng vừa náo nức vừa hồi hộp
giống như ngày xưa khi đứng chờ xem kết
quả thi tú tài ! Ông ra đón tận cổng vào. Có hai chuyến
bay đến từ hai nơi khác nhau nhưng đổ
hành khách xuống cùng một lúc, nên sân bay đầy người.
Giữa cái lao xao lộn xộn đó, ông Năm nghểnh cổ
t́m vợ trong luồng người thoát ra từ cổng F,
cổng của chuyến bay Air France. Ông nh́n từng khuôn mặt,
từng người. Ông nh́n, ông chớp mắt để
nh́n cho rơ hơn. Những gương mặt Á đông phờ
phạc. Những gương mặt Á đông hốc hác. Những
gương mặt Á đông xanh xao. Ông nh́n, ông chờm tới,
nhích tới để nh́n. Bả dễ nh́n lắm. Lúc nào cũng
sạch sẽ gọn ghẽ. Lúc nào cũng điệu.
Trong đám đông, bả nổi hơn người ta nhờ
nước da trắng hồng của gương mặt
trái soan và đôi mắt lớn, cho nên dễ nhận ra lắm.
Không phải bà này. Bà này già quá cũng không phải. Bà này coi
ngờ ngợ nhưng đi chung với bầy con nít, không
phải bả. Ông nhón chân lên để cái nh́n được
đưa ra xa th́ tai thoáng nghe h́nh như có tiếng người
gọi nhỏ : "Ông Năm !" Ông vẫn tiếp tục
nh́n từng người, từng khuôn mặt. Lại có tiếng
người gọi nhỏ, lần này tiếng gọi lạc
đi : "Ông Năm…" Nghe rơ có tiếng ai gọi
ḿnh, ông nh́n lại. Ngay phía trước, đứng cách ông
chỉ mấy bước, người gọi ông là một
bà già tóc muối tiêu hớt bom bê ngắn như mấy bà
Tàu Chợ Lớn, mặc áo len nâu rộng thùng th́nh, ống
tay dài phủ mất hai bàn tay đang xách mỗi bên một
túi vải. Chỉ mới nh́n tới đó thôi, linh tánh bắt
ông nh́n lại gương mặt : khuôn mặt gầy xạm
nắng với những nếp nhăn trăng trắng ở
khoé môi và đuôi mắt. Ngần đó thứ giống
như miếng cau khô, chỉ trừ có hai con mắt là sinh
động, là mở to như có vẻ ngạc nhiên, là nói
lên, là nhắc nhở, là… là… Trời ơi ! Là vợ tôi
đây mà ! Ông Năm nghẹn ngào bước tới, hai tay
đưa về phía bà già và chỉ c̣n đủ sức gọi
có một tiếng : "Mai !" Ông ôm lấy vợ mắt
nhắm nghiền đau đớn. Tội nghiệp !
Người vợ chỉ dám gọi chồng bằng hai tiếng
"Ông Năm" như người xa lạ, và chỉ
dám gọi có hai lần. Và khi chồng nh́n ra ḿnh, ôm chầm
lấy ḿnh, người vợ đó chỉ c̣n nói
được bằng nước mắt ! Ông Năm buông vợ ra
để nh́n lại lần nữa. Ông nghe nghẹn lời
và nghẹn cả ḷng. Ông chỉ c̣n nói được bằng
hai bàn tay… Hai bàn tay vuốt làn tóc bạc bây giờ sao quá thẳng
quá ngắn. Hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt bây giờ sao
không lấp đầy hai ḷng bàn tay. Hai bàn tay đặt xuống
bờ vai bóp nhẹ. Dưới lớp áo len, ông cảm rơ
nét gầy của bờ vai bây giờ. Bây giờ… Hồi
đó… Từ trong sâu thẳm của ḷng ông, nỗi đau
khổ tột cùng bỗng bật lên thành tiếng, một
thứ tiếng nói lệch lạc méo mó v́ uất nghẹn
: "Sao vầy nè ?". Rồi, không kềm chế nổi
nữa, không cần giữ ǵn ư tứ ǵ nữa, trong cái rừng
người xào xạc đó, ông ôm lấy vợ, ngửa mặt
lên trời thét lên một cách thống thiết : "Sao vầy
nè… Trời ?". Tiếng "Trời" nặng trĩu
thoát ra từ ḷng ngực ông như tất cả sinh lực
trong người được trút ra hết… Rồi ông ôm
lấy vợ, nước mắt ràn rụa. Bà Năm cũng
khóc nhưng vẫn không buông rời hai cái túi vải. Hơn
mười năm sống với Việt Cộng, đă trở
thành một bản năng : nắm chặt, giữ chặt
những ǵ c̣n thuộc về ḿnh, những ǵ mà "tụi
nó" chưa kịp chiếm lấy, cướp lấy ! Một lúc lâu sau, phải
một lúc lâu sau, ông Năm mới lấy lại b́nh tĩnh.
Ông nói : - Thôi ḿnh về đi em
! Tiếng "em" thật
tự nhiên, thật nhẹ nhàng. Tiếng "em" mà
đă mười năm, bà không c̣n nghe thấy ! Bà cắn
môi để kềm xúc động, nh́n chồng mà đuôi
mắt nheo lại mỉm cười. Bà nghe một cái ǵ
mát rượi đang len vào ḷng, một cái ǵ đă làm
rơi mất từ hơn mười năm, bây giờ mới
t́m gặp lại. Măi đến bây giờ, ông Năm mới
thấy trong đôi mắt vợ, nét cũ ngày xưa : to
tṛn như mắt đầm, trồng đen lay láy. Đôi
mắt đó đang nh́n ông, cái nh́n ngời lên như muốn
nói thật nhiều… Ông cúi xuống định xách hai túi vải.
Bà Năm lắc đầu : - Để em xách ! Tiếng "em cũng
thật tự nhiên thật nhẹ nhàng. Giọng nói thật
dịu dàng, trong trẻo. Làm như nước mắt
đă tẩy sạch dấu vết của mười
năm… Ông vói tay cầm lấy
quai túi : - Để anh xách
cho. Bà Năm vừa
bước đi, vừa nói, tay vẫn nắm chặt hai
túi vải : - Không sao. Em xách
được. Ở bển, em gánh lúa mỗi ngày cho nhà
máy, có sao đâu.
Ông Năm bỗng nghe ḷng quặn thắt. Th́ ra "tụi
nó" đày đọa bả đến nước
đó ! Bả tội ǵ ? Tội ǵ ? Tội vượt biên
? Th́ đă ở tù trên ba tháng rồi c̣n ǵ nữa ? Vậy tội
ǵ ? Ông Năm nghiến cái câm thù trong răng để đừng
chửi đổng, nhưng rồi ông cũng bật ra :
"Quân khốn nạn !" -oOo-
Về đến nhà th́ trời đă xâm xẩm tối. Lần
này th́ chính ông Năm xách hai túi vải, đi trước dẫn
đường, ḷng vui như mở hội. Đến
chân cầu thang, ông nói :
- Ở từng lầu ba lận. Em leo nổi không ?
Bà Năm trả lời, giọng vẫn trong trẻo :
- Ǵ không nổi ? Bây giờ em làm cái ǵ cũng nổi hết.
Rồi bà bước lên cầu thang, bước đều
đặn. Ông Năm theo sau, nh́n dáng dấp nhỏ thó với
mái tóc bạc hớt bom-bê cao ông bỗng thương vợ
vô cùng. Mười năm… Mái tóc huyền mà ngày xưa hay kéo
sát về phía sau để cuốn tṛn kẹp gọn một
ṿng trên ót… bây giờ chỉ c̣n là như vầy ! Cái cổ
tṛn dẫn xuống bờ vai thon thon của hồi đó…
bây giờ gầy nhom như vầy ! Mười năm… Chắc
bả phải khổ ghê lắm, phải chịu đựng
ghê lắm mới ra nông nỗi này ! Tội nghiệp !
Người đàn bà hiền khô và nhát hít đó chưa làm
phiền lụy ai bao giờ, vậy mà Việt Cộng vẫn
moi ra một cái cớ nào đó để hành hạ. Và
như vậy suốt mười năm. Lam lũ quá nên bả
già trước tuổi, chớ bả cũng c̣n giữ
được cái nh́n, giọng nói và tâm hồn… những thứ
mà Việt Cộng không cưỡng chiếm được
!
Vào nhà, ông Năm bật đèn lên, bà Năm nh́n quanh mỉm
cười, không nói. Ông Năm đặt hai túi lên bàn
ăn, rồi cũng nh́n quanh :
- Nhà của anh đó. Nhỏ như cái lỗ mũi. Tạm
một thời gian rồi ḿnh sẽ kiếm nhà khác rộng
hơn.
Bà Năm dịu dàng :
- Như vầy cũng được. Có hai đứa mà
ǵ…
Bỗng nhiên hai người nh́n nhau. Tiếng "hai đứa"
nhắc cho họ nhớ tới hoàn cảnh bây giờ, một
hoàn cảnh mà từ lúc gặp lại nhau bao nhiêu thống
hận dập dồn đă làm họ quên đi : bây giờ
"hai đứa" vẫn c̣n có nhau, thật sự c̣n
có nhau. Rồi sẽ không c̣n ǵ chia cách. Rồi sẽ đi
bên nhau, đi hết đoạn đường c̣n lại,
một đoạn đường không c̣n bao nhiêu xa… Bởi
v́ họ biết : họ đang bước vào mùa thu của
cuộc đời… Cho nên họ nh́n nhau mà yêu thương
dâng đầy trong mắt.
Bà Năm bước lại cửa sổ. Ngoài xa trên nền
trời trắng đục, hiện lên thật rơ cây thánh
giá và nóc nhà thờ Sacré Coeur. Bà Năm hỏi :
- Cây thánh giá này đây ?
Câu hỏi trống không nhưng hai người cùng hiểu
: cây thánh giá mà ông Năm viết đi viết lại không
biết bao nhiêu lần trong thư gởi về Việt
Nam. Ông bước lại khoác vai vợ, gật gật
đầu. Hai người yên lặng nh́n cây thánh giá như
đang tạ ơn, giống như đang rước lễ,
giống như cô dâu chú rể sau khi được kết
hợp thành vợ chồng… Thời gian bỗng như dừng
lại, để h́nh ảnh trở thành bất diệt,
nói lên cái cao cả của t́nh yêu, cái huyền diệu của
niềm tin… những thứ mà Việt Cộng muốn xoá bỏ
để biến con người thành gỗ đá.
Một lúc lâu sao, bà Năm như sực tỉnh :
- Để em soạn đồ ra.
Rồi bà bước lại bàn mở hai túi vải. Ông
Năm đốt điếu thuốc, khói thuốc lâng lâng
nhẹ. Ông ngồi cạnh giường nh́n vợ soạn
đồ bằng đôi bàn tay xạm nắng với những
đường gân nổi lên ngoằn ngoèo. Đôi bàn tay
đă từng có ngón tay thon dài khéo léo từ đường
kim mũi chỉ… bây giờ là như vậy ! Ông thấy
thương vợ vô cùng.
Bà Năm soạn đồ ra để trên bàn : vài bộ
quần áo, mấy cái khăn lông, một cái mền nhỏ…
Vừa làm bà vừa nói :
- Có bao nhiêu, em đem theo hết. Nói là đi chánh thức chớ
không biết lúc nào tụi nó bắt ḿnh lại. Có nhiều
người lên máy bay rồi mà c̣n bị lôi xuống, không
biết v́ cớ ǵ. Rồi khi được thả ra là
trắng tay.
Bà lấy trong túi ra một khuôn h́nh, trao cho ông Năm :
- Em đem h́nh ông già bà già qua để lâu lâu ḿnh thắp một
cây nhang.
Ông Năm nh́n h́nh cha mẹ, ḷng bồi hồi xúc động.
H́nh này, hồi đó, để trên bàn thờ nhà cũ. Nhà
bị tịch thu, không hiểu bả làm sao lấy
được để mang qua đây ? Ông đứng lên
nh́n quanh, rồi treo khuôn h́nh lên cây đinh trên tường
đối diện.
Có tiếng bà Năm nói :
- Em có đem qua cho anh chai rượu nếp than nữa. Nhớ
hồi đó anh ưa lắm.
Ông quay lại, cầm chai lên mở nút. Chưa đặt
miệng chai lên mũi mà mùi rượu ngọt ngào thơm
phức tỏa ra thật nồng nàn. Ông hít một hơi
dài, đóng nút lại, rồi nh́n chai rượu mà ứa
nước mắt. Nỗi nhớ quê hương nằm
sâu trong t́m thức, bây giờ, mùi rượu nếp than,
màu rượu nếp than đă làm bật dậy, vô cùng
mănh liệt. Ông tưởng chừng như vừa hưởi
thấy mùi thơm quê hương. Có mùi ngọt ngọt của
lúa chín, có mùi nồng nồng của rơm của rạ,
có mùi hăng hăng của đống un đốt cạnh
chuồng trâu chuồng ḅ… Ông tưởng chừng như
đang giữ trong tay một mảnh trời quen thuộc.
Ở đó có màu tím lờn lợt của hoa bằng
lăng, có màu tím nâu nâu của vỏ măng cụt, có màu
tím học tṛ của trái mồng tơi, và những tà áo tím
phất phơ theo gió qua cầu, với những chiều
tím quê ngoại, đứng ngẩn ngơ bên sông Vàm Cỏ
khi tuổi vừa mới lớn… Chao ơi ! Ngần đó
thứ, tưởng quên nhưng vẫn nhớ. Ngần
đó thứ bây giờ xa thật xa. Xa, không phải v́ cách
biệt, mà xa v́ không c̣n thuộc về ḿnh nữa !
Ông Năm cầm chai lắc lắc, bột nếp than tím
ngát dợn lên trong ḷng chai. Ông mở nút rót thẳng vào miệng
một hớp. Chất rượu béo ngậy ngọt ngào
cay cay nhắc ông nhớ những quán nhậu ở Hóc Môn,
những món thịt rừng ở Biên Hoà, những con cá mú sửa
kho tộ ở Vũng Tàu băi sau băi trước… Ông ngậm
lấy hớp rượu để nghe rơ chất rượu
đang thấm vào nướu răn, đang thấm vào các
thớ thịt cổ, đang thấm lên nóc giọng,
đang nồng lên mũi. Ôi ! Mùi vị quê hương là
đây… ông không cầm được nước mắt !
Bà Năm vẫn âm thầm soạn đồ đạc. Bà
hiểu ông Năm lắm và nghe thương chồng vô cùng.
Tội nghiệp ! Mười năm xa quê hương…
Ông Năm vào pḥng tắm rửa mặt rồi ra chỉ chỗ
cho vợ xếp quần áo. Xong ông bảo :
- Anh đă làm sẵn mấy món ăn cho hai đứa.
Để anh đem ra hâm. Em đặt bàn đi. Đồ
đạc trong tủ búp-phê đó.
Bà Năm nghi ngờ :
- Anh mà làm bếp cái nỗi ǵ ? Mua ở tiệm th́ có.
Ông Năm cười sảng khoái :
- Em lầm rồi ! Bây giờ, anh làm cái ǵ cũng được
hết. Nấu bếp, giặt đồ, làm ménage … đủ
thứ. Rồi em coi ! À… đặt bàn em nhớ để
một dĩa sâu cho món súp légume và một dĩa trẹt cho
món gà nấu rượu, nghe !
Bà Năm mỉm cười, thấy chồng sung sướng
mà ḷng cũng thênh thang trải rộng.
Một lúc sau, hai vợ chồng ngồi vào bàn ăn. Trên
bàn cũng có hai cây nến. Cũng khăn trải bàn trắng
phau, cũng khăn ăn màu xám lợt, cũng dĩa trắng
chạy chỉ vàng, cũng nĩa dao cáng gỗ có nét vẽ
cong cong nhè nhẹ. Và không quên hai ly rượu có chân, đựng
chút rượu nếp than có màu tím đậm đà và
hương thơm mời mọc.
Ông vui vẻ : - Như vầy mới
đúng là nuit de noces chứ, phải không em ? Bà Năm nh́n chồng
không nói, nhưng vành tai bỗng đỏ bừng. Bà nói lảng
: - Súp ngon chớ ! Anh học nấu ở
đâu vậy ? Ông để ngón tay trỏ lên môi, vẻ bí mật
: - Hùm… Không nói đâu ! Ông
Tiên người Tàu chuyên nấu đồ Tây chỉ đó,
dặn anh đừng nói cho ai biết ! Rồi cả hai cùng
cười v́ h́nh ảnh ngộ nghĩnh đó, cái cười
hồn nhiên t́m lại sau mười năm xa nhau… Bữa ăn kéo dài bằng
những chuyện kể cho nhau nghe, nhớ đâu kể
đó, không mạch lạc đầu đuôi, bởi v́
trong thời gian mười năm có biết bao nhiêu sự
việc đă xảy ra để mà nhớ cặn kẽ
cái nào sau cái nào trước ! Dọn dẹp xong th́ trời
đă khuya. Hai vợ chồng chia nhau, bà nằm trên giường,
ông nằm trên nệm dưới đất. Tắt đèn đă lâu
mà hai người vẫn c̣n trằn trọc. Làm như c̣n
thèm nói chuyện với nhau nữa ! Bóng tối dầy
đặc vây quanh. Không khí trong nhà êm êm mát mát. Mùi rượu
nếp than và mùi thuốc lá Dunhill c̣n phản phất
thơm thơm. Bỗng bà Năm nghe một bàn tay của chồng
đặt lên ḿnh ḿnh. Toàn thân bà run lên nhè nhẹ. Hơi thở
của bà bỗng trở nên phập phồng. Một cảm
giác dường như thật cũ, mà cũng dường
như thật mới, d́u dịu ngây ngây… Bà không biết nữa
! Rồi, không tự chủ được, bà cầm bàn
tay chồng áp lên má, lên mũi, lên môi. Bàn tay này tưởng
đă vĩnh viễn không c̣n nh́n thấy, cầm lấy. Da
thịt này tưởng đă vĩnh viễn không c̣n đụng
chạm sờ mó được. Mười năm… Mười
năm… Nước mắt bỗng chảy dài xuống hai
bên tai, bà Năm thốt lên nho nhỏ : "Ḿnh !". Chỉ
có một âm đơn độc, nhưng sao tiếng
"ḿnh" nói lên thật nhiều, diễn tả thật
nhiều. Tiếng "ḿnh" mà mười năm nay ông
Năm không c̣n nghe. Tiếng "ḿnh" gợi lên t́nh nghĩa
vợ chồng, nỗi niềm chia xẻ. Tiếng
"ḿnh" cũng là tiếng nói của yêu
đương, của hài hoà sum họp. Và tiếng
"ḿnh" ở đây, trong hoàn cảnh này, sao nghe thật
mời mọc dâng hiến… Người đàn bà mười
năm khổ hận đó, vợ ông, cần được
yêu thương thật nhiều để bù lại. Tiếng
"ḿnh" gọi nhỏ trong đêm bỗng nghe tiếp
nối… Bồi hồi xúc động, ông Năm chồm lên
ôm xóc lấy vợ, hôn tràn lên tóc, lên má, lên môi. Ông nghe trong
tay, run lên như đang cơn sốt, thân xác gầy c̣m của
vợ. Và tai ông c̣n nghe những tiếng "ḿnh" đứt
quăng ú ớ như tiếng nói trong chiêm bao… Cuộc t́nh của tuổi
vào thu âm thầm như lá rụng bên ngoài nhưng cũng nồng
nàn ngọt lịm như hớp rượu nếp than cùng
chia nhau khi năy. Có mùa chớm thu nào mà không thấy c̣n sót lại
vài tia nắng hạ ? -oOo- Tôi muốn câu chuyện
này chấm dứt ở đây cho cuộc t́nh được
đẹp như bài thơ, được vuông tṛn như
trong tiểu thuyết. Nhưng trên thật tế không phải
như vậy. Bởi v́… …Một tháng sau đó, bà Năm ngă bịnh,
phải vào nằm nhà thương. Bà bị ung thư phổi,
ở thời kỳ chót. Bà đă giấu ông Năm, lâu nay,
bây giờ bà mới cho biết : hồi c̣n ở Việt
Nam, nhờ khám thấy ung thư nên bà mới xin được
chiếu khán xuất cảnh. "Nhà nước Cách Mạng
vốn khoan hồng nhân đạo, nên cho phép chị sang
thăm chồng đấy ! Chớ chị không nằm
trong diện được cứu xét nào cả. Rơ chưa
?". Gă cán bộ trao giấy phép cho bà Năm, mà nói như
thật ! Tụi nó dư biết rằng có giữ bà lại
cũng chỉ tốn gạo tốn khoai thêm vài tháng nữa
và là một miệng ăn phi sản xuất, chẳng lợi
lộc ǵ cho "nhân dân". Thà tống đi gấp để
khỏi phải chôn thêm một người, chật đất
! Ông Năm đă ngồi
bên giường vợ suốt thời gian cuối cùng. Ông
đă cầm bàn tay c̣n mang tỳ vết của mựi
năm gian khổ. Ông đă ôm gương mặt phong trần
chưa kịp đổi hồng sau mấy tuần sống
đầy hạnh phúc. Và cuối cùng, ông đă chải lại
mái tóc bạc chưa kịp dài để được cuốn
tṛn kẹp lên sau ót, như ngày xưa… Ông đă gục lên thân
xác gầy khô, khóc với tất cả nước mắt
c̣n lại. Mùa thu đó, lá rụng
thật nhiều…
Tiểu Tử |