làm thinh ·
19.12.2005
Cái làng nhỏ đó nằm gần biển Manche, cách thành phố
Etretat (miền bắc nước Pháp) độ 10 km. Trong
làng có chừng năm chục nóc gia nằm chùm nhum lại
thành một khu, trừ một cái nhà nằm rời xa một
ḿnh về phía biển. Người trong làng gọi cái nhà
đó là " nhà ông Lê ".
Cách đây mấy năm, ông Lê -người Việt Nam
độ 40 tuổi- từ Paris ra đây mua lại cái nhà
đó để làm nhà nghỉ mát. Mùa hè và các ngày lễ lớn,
ông đưa vợ con -vợ người Pháp và hai con trai
chín mười tuổi- ra đây đổi gió và lâu lâu ông
cho bạn bè mượn năm bảy hôm. Ông có mướn
một người trong làng -tên Jean Marie- trông nom nhà cửa
và cắt tỉa vườn tược cây trái.
Mới đầu, người trong làng cứ tưởng
ông Lê là người Tàu. Cho nên, họ hơi dè dặt. Chừng
biết ổng là người Việt Nam, họ cởi mở
hơn, thân thiện hơn. Làm như, đối với họ,
người Tàu là người ngoại quốc xa lạ,
c̣n người Việt Nam th́ ít nhiều ǵ cũng đă từng
được xem là người trong nhà ! Họ càng có cảm
t́nh với ông Lê khi biết rằng ổng qua Pháp học từ
hồi mười lăm tuổi, rằng ổng tốt
nghiệp trường Arts et Métiers, rằng ổng làm chức
lớn trong cơ quan Nhà Nước v.v... Họ hay nói với
nhau: "Vợ chồng ông Lê thật dễ
thương".
Vùng này cao hơn mặt biển hai ba chục thước
mà cuộc đất lại không lài lài xuống lần khi
ra gần biển như ở những nơi khác, nên không
có băi. Ở đây, biển đâm thẳng vô bờ, loại
bờ đá dựng thiên nhiên sừng sững như một
bức tường cao thật cao. Những ngày biển
động, sóng đập vào chân tường đá nghe ầm
ầm. V́ nhà ông Lê nằm cách bờ đá dựng không xa,
nên vào những ngày đó, từ trong nhà nghe âm vang tiếng
sóng giống như những tiếng thở dài.
Hè năm đó, ông Lê và gia đ́nh ra đây nghỉ mát chỉ
có ba tuần thay v́ một tháng như thường lệ.
Ông nói với ông Jean Marie -người quản gia- rằng
phải trở về Paris để đón cha mẹ từ
Việt Nam qua. Ông Jean Marie hỏi ông có định
đưa ông bà cụ ra đây chơi không th́ ông Lê trả
lời rằng không, bởi v́ ông bà cụ mới xuất
ngoại lần đầu tiên nên phải đợi một
thời gian cho quen với khí hậu phong thổ.
Vậy mà chỉ mươi ngày sau, thấy ông Lê chở ra
đây một ông già tóc trắng với hai va-ly hành trang.
Người quản gia nghĩ: "Chắc định ở
lâu nên mới mang hành trang nhiều như vậy ". Ông Lê
giới thiệu: " Đây là cha tôi. C̣n đây là Jean Marie,
quản gia". Sau đó, ông nói: "Trong thời gian cha tôi
ở đây, tôi xin nhờ bà Jean Marie lo dùm việc nấu
nướng giặt giũ giống như những lúc gia
đ́nh tôi ra đây nghỉ mát. Có điều là cha tôi không
thể đi chợ ở Etretat như chúng tôi vẫn làm
lâu nay, nên tôi nhờ ông bà lo giùm luôn vụ này. Đổi lại,
tôi sẽ tăng tiền thù lao của hai ông bà lên mười
phần trăm. Tôi xin ông bà chấp nhận cho".
Sau khi gọi điện thoại về nhà bàn tính với vợ,
ông Jean Marie bằng ḷng. Tiếp theo đó, ông Lê trao cho ông
Jean Marie một số tiền và nói: "Đây, tôi gởi
ông bà một tháng tiền chợ. Tôi dự trù dư dả
pḥng khi cha tôi cần mua những ǵ khác, nhưng nếu thấy
thiếu th́ điện thoại cho tôi hay để tôi gởi
ra thêm. Mỗi cuối tháng, tôi sẽ gởi tiền để
gối đầu cho tháng kế tiếp, ông bà yên tâm".
Ông Jean Marie hỏi: "C̣n bà cụ đâu ? Sao không cùng ra
đây với ông cụ ?". Ông Lê trả lời như
không trả lời: "Mẹ tôi ở Paris". Rồi
sau khi nói mấy lời cám ơn ông Jean Marie, ông bắt tay từ
giả người quản gia và ông già tóc trắng để
trở về Paris, vội vă như không muốn vấn
vương ǵ nữa ! Thấy ông Lê đối xử với
ông già tóc bạc như là một người quen thường,
ông Jean Marie vừa ngạc nhiên vừa bất nhẫn, bởi
v́ ông nhận thấy rơ ràng ông già tóc bạc đó và ông Lê thật
sự giống nhau như hai cha con.
Ông già ở trong nhà ông Lê như một cái bóng. Ông không xem
tê-lê, không nghe ra-đi-ô. Ông cứ ngồi ở xa long hút thuốc
liên miên, mắt nh́n thẳng ra cửa kiếng hướng
về phía biển, giống như đang coi một cái ǵ ở
ngoài đó. Ở ngoài đó không có ǵ hết ! Không có một
cái cây, không có một lùm bụi. Cỏ dại cũng không mọc
cao. Mặt đất trống trơn chạy thẳng ra bờ
đá dựng. Từ chỗ ông ngồi, nh́n ra chỉ thấy
đất và trời. Lâu lâu, vài con hải âu bay phớt
ngang, và lâu lâu trên nền trời trong xanh của mùa hè, một
sợi mây đi lạc. Chỉ có bao nhiêu đó, vậy mà
ông cứ ngồi nh́n, nh́n đăm đăm.
Mới đầu, ông bà Jean Marie cứ tưởng rằng
ông già không biết nói tiếng Pháp. Nhưng sau mấy lần
hỏi han thấy ông trả lời trôi chảy mạch lạc,
ông bà mới yên tâm. Có điều là hỏi th́ ông mới trả
lời chớ không thấy bao giờ tự ông gợi chuyện.
Suốt ngày, ông làm thinh. Cần dùng ǵ th́ ông viết ít chữ
rồi gắn trên mặt tủ lạnh. Ông bà Jean Marie thấy
vậy cũng ráng giữ ư không làm tiếng động khi
quét dọn hay đi ra đi vào. Nhiều khi, họ có cảm
tưởng như trong nhà không có ai hết ! Chỉ có mùi
khói thuốc là nhắc đến sự hiện diện của
ông già.
Ông già đó tên Lê Tư. Hồi thời trước -cái thời
mà miền nam Việt Nam chưa biết mùi cộng sản-
ông Tư là một nhà thầu xây cất rất có bề thế
ở Sàig̣n. Ông giao du rộng, lại "biết cách giao
du", thêm giỏi tính toán sắp xếp nên ông trúng thầu
nhiều công tŕnh lớn của Nhà Nuớc và của các công
ty ngoại quốc. Do đó, càng ngày ông càng nổi tiếng
và sự nghiệp th́ cứ nhân lên gấp năm gấp
mười. Dù vậy, ông không bao giờ chối bỏ cái
gốc hàn vi của ông và rất tự hào đă bắt
đầu bằng hai bàn tay trắng.
Ông thường nói: "Hồi tôi từ Đà Nẳng vô
Sàig̣n, tôi chỉ có một chiếc xe đạp cũ và cái
nghề thợ hồ. Ban ngày đạp xe đi làm, ban
đêm đạp xe đi học thêm ở Trung Tâm Văn
Hoá Pháp và hội Việt Mỹ. Hồi thời đó, quanh
năm suốt tháng, tôi chỉ biết có thắt lưng buộc
bụng, ăn uống kham khổ, để dành tiền gởi
về cho cha mẹ ở Đà Nẳng và để đóng
các học phí. Vậy mà tôi vẫn không ngă ḷng. Lúc nào trong
đầu tôi cũng nghĩ rằng phải cố gắng
vương lên, bởi v́ không ai giúp ḿnh bằng ḿnh hết.
Nhờ vậy mà bảy tám năm sau, tôi đă có một
cơ sở vững chắc để cạnh tranh với
các nhà thầu khác. Rồi th́ xây cất hết công tŕnh này
đến công tŕnh khác, có khi hai ba công tŕnh cùng một lúc,
cơ sở cứ lớn lần lớn lần để
trở thành bề thế như ngày hôm nay. Nghe tôi nói tôi bắt
đầu sự nghiệp bằng con số không chẳng
có mấy ai tin hết ".
Khi đă khá giả, ông mới cưới vợ. Ông hay nói
đùa : "T́nh phải có tiền đi theo nó mới vững.
Giống như bê-tông phải có cốt sắt nó mới bền
!".
Ông bà Lê Tư chỉ sanh có một người con trai đặt
tên Lê Tuấn. Năm Tuấn được mười
lăm tuổi, ông gởi con qua Pháp học. Ông muốn nó học
ngành kiều lộ để sau này trở về nối
nghiệp ông. Ông nói : "Việt Nam ḿnh cạnh tranh không nổi
với hăng thầu ngoại quốc bởi v́ ḿnh có binh mà
thiếu tướng". Và ông hy vọng trong tương
lai, con ông sẽ thực hiện những công tŕnh vĩ
đại, vượt trội hẳn những ǵ ông đă
làm. Để cho ông được nở mặt.
Cái tương lai đó bỗng tắt ngúm chỉ trong một
thời gian ngắn sau ngày 30 tháng tư, 1975.
Trước cái ngày đen tối đó, một người
như ông Lê Tư dư sức để di tản dễ
dàng. Vậy mà không thấy ông nhúc nhích. Ông cứ điềm
nhiên hút thuốc, uống trà, xem truyền h́nh, nghe
ra-đi-ô. Giống như một kẻ bàng quan. Bà Lê Tư
th́ cứ đi ra đi vô, hết gọi điện thoại
cho bà bạn này đến gọi cho bà bạn khác. Rồi
thúc giục ông đi di tản. Bà nói :
- Trời ơi ! Mấy bả đi hết rồi ḱa !
Ông cười :
- Th́ ai sợ cứ đi. Bà yên tâm. Tôi bảo đảm
không có sao hết. Nói thiệt với bà, "họ"
đă liên lạc với tôi cách đây hơn tháng, nói rơ rằng
họ cần dùng những người như tôi để
xây dựng lại đất nước. Cho nên, bà thấy
tôi không ? Tôi b́nh chân như vại !
Điều mà ông không nói cho bà biết là từ bao lâu nay, ông
vẫn đều đặn gởi tiền giúp cách mạng
qua ngả thằng cháu -cũng gốc liên khu năm như
ông- đang hoạt động ở mấy tỉnh miền
Đông. Chính người cháu đó đă cho người về
gặp ông để giải thích rơ ràng chủ trương
đường lối của cách mạng. Nhờ vậy,
ông mới vững tâm tin tưởng.
Đâu dè, sau khi cách mạng "đánh cho Mỹ cút,
đánh cho ngụy nhào", cách mạng quay về đánh
tư sản. Ông Lê Tư cũng "bị" mời
đi "làm việc" như mọi người. Ông có
xuất tŕnh giấy chứng minh của Liên khu bảy, là
vùng ông đă giúp đỡ, nhưng "lá bùa" đó
không linh ! Ông cũng nghĩ đến thằng cháu cách mạng,
nhưng bây giờ ông không biết nó ở đâu để
gọi nó đến làm chứng. V́ vậy, ông vẫn bị
mời tới mời lui để "làm việc".
Mỗi lần làm việc, họ quay ông như con dế !
Đến nỗi về sau, mệt mỏi quá, chán chường
quá, thấy nói ǵ cũng vô ích, nên ông bèn làm thinh, mặc cho họ
muốn nói ǵ th́ nói, hỏi ǵ th́ hỏi. Rồi đến
lần "làm việc" cuối cùng, ông cũng làm thinh
kư tên trên xấp giấy tờ họ đưa ra, ông kư mà
không thèm đọc qua một chữ ! Lần đó, ông
bước ra khỏi cơ quan, có cảm tưởng
như đang sống trong một thế giới khác, một
thế giới lộn ngược ! Ông không c̣n khái niệm
không gian thời gian. Ông chỉ biết rằng sau cái phút kư
tên đó, ông trắng tay. Và ông c̣n nghe trong đầu câu nói
ơn nghĩa "nhờ ông đă sớm giác ngộ cách mạng
nên không phải đi cải tạo". Ông lái xe về nhà
như một người máy. Ông đâu biết rằng
trong cuộc "đổi đời vĩ đại"
này, con người đâu c̣n sống bằng lư trí : con
người chỉ sống bằng bản năng thôi !
Về đến trước cổng nhà, bỗng nhiên ông
Lê Tư nhận thức rằng tất cả những ǵ
trực thuộc về ông bây giờ chỉ c̣n lại
người vợ đang đợi ông ở nhà.
Xưa nay, mọi việc trong gia đ́nh đều do ông
quyết định. Bà Lê Tư luôn luôn làm theo ư của ông,
không bao giờ thắc mắc. Bởi v́ bà hoàn toàn tin tưởng
vào người chồng mà lúc nào bà cũng cảm phục
như một thần tượng. Bà nói : "Từ bàn tay
trắng dựng nên sự nghiệp đồ sộ
như vầy, không phải ai làm cũng được
!". Và bà thường ví chồng bà như một cây cau vững
chắc để bà bám vào đó như một giây trầu.
Vậy mà bây giờ bây giờ Ông Lê Tư không biết ví
ḿnh như cái ǵ nữa. Cách mạng mà ông đă giúp từ
ngày ông dựng nghiệp, hôm nay nhân danh ǵ ǵ đó, đă biến
ông thành con số không. Dễ dàng như người ta cầm
nùi giẻ bôi hết những hàng chữ phấn trên một
bảng đen, bôi mà không cần biết những hàng chữ
đó viết những ǵ ! Chỉ trong có một khoảnh
khắc, ông chẳng c̣n ǵ hết và bản thân ông cũng
không là ǵ hết ! Ông đă trở thành một "thứ
ǵ" đó không có tên, một sản phẩm của cách mạng
mà sách vở xưa nay chưa thấy có định nghĩa
!
Ông bước vào nhà mà cảm thấy ḿnh lêu bêu như bọt
nước, không làm chủ được ǵ hết, kể
cả làm chủ chính bản thân ḿnh ! Cái biệt thự có
hồ tắm vườn hoa, có năm ngăn bảy nắp,
mà ngày xưa ông đă xây cất cho tương xứng với
địa vị xă hội của ông bây giờ bỗng trở
nên ngạo nghễ, vô duyên.
Nhà vắng teo. Một số gia nhân đă xin nghỉ việc
từ những ngày sôi động, số c̣n lại đă
được cho nghỉ ngay sau ngày 30 tháng tư. Bà Lê
Tư chắc đang làm ǵ ở dải nhà sau nên ông không
nghe tiếng động. Ông đốt điếu thuốc
rồi ngồi xuống phô-tơi nh́n thẳng ra vườn.
Ông nh́n mà không thấy ǵ hết ! Yên lặng.
Tiếng bà Lê Tư làm ông giựt ḿnh :
- Sao ông ? Họ đ̣i ǵ nữa vậy ?
- Họ đâu có đ̣i. Họ lấy.
- Lấy ǵ ?
- Lấy hết tài sản của ḿnh.
Giọng bà bỗng cao lên một nấc :
- Lấy hết tài sản ?
Ông nh́n bà rồi trả lời bằng cái gật đầu.
Giọng của bà lại cao thêm một nấc :
- Ǵ lạ vậy ? Tự nhiên rồi đ̣i lấy tài sản
của người ta. Đó là ăn cướp chớ
đâu phải lấy ! Rồi ông trả lời làm sao ?
Ông thở mấy hơi thuốc, rồi mới nói :
- Th́ tôi giao hết lại cho họ chớ c̣n làm sao ?
Bà chỉ kêu được một tiếng "Trời
!" rồi ngồi phịch xuống ghế, mắt nh́n
thẳng ra vườn. Bà nh́n mà cũng không thấy ǵ hết
! Yên lặng. Một lúc sau, ông nói, giọng thật trầm
tĩnh :
- Bà nghĩ coi. Bây giờ họ là kẻ chiến thắng.
Quyền sanh sát nằm hết trong tay, họ muốn nói ǵ
làm ǵ mà không được.
- C̣n luật pháp để đâu ?
- Luật pháp của ai ?
Bà làm thinh. Một lúc sau, bà nói :
- Hôm trước ông nói họ đă móc nối với ông
để ông ở lại giúp họ xây dựng ǵ ǵ đó.
Sao bây giờ họ lột hết của ông vậy ?
Ông làm thinh. Khói thuốc trong miệng bỗng trở nên thật
đắng. Ông nghe thèm một hớp trà hay một hớp
nước lạnh, hay bất cứ một chất lỏng
nào cũng được để ông nuốt xuống
"cái ǵ đó" đang nghẹn ngang ở cổ. Ông dụi
điếu thuốc rồi đi lại bar ở góc xa-long
rót một ly nhỏ Porto uống ực một cái, giống
như người ta bị mắc xương. Xong ông trở
lại phô-tơi ngồi xuống, đốt điếu
thuốc. Chất rượu đang nồng trên mũi,
nhưng sao khói thuốc vẫn c̣n nghe thật đắng !
Giọng bà Lê Tư có vẻ trách móc :
- Chớ phải ông nghe lời tôi đi di tản như
thiên hạ th́ đâu có sao.
- Đi di tản cũng mất hết chớ hơn ǵ.
- Sao mất hết
được ? Ông quen lớn nhiều mà không hốt
được một mớ đem đi theo à ? Có nhiều
người c̣n gởi được bàn ghế và vô số
đồ cổ nữa. Như anh X., như anh T., như
ông tướng Z toàn là bạn thân của ông không.
Ông làm thinh. Bà vẫn nói, càng nói giọng càng gay gắt :
- Thà rằng ḿnh đi, cái ǵ không đem theo được
là ḿnh bỏ. Tụi nó có lấy, cũng là lấy những
ǵ ḿnh bỏ. Chớ c̣n bây giờ, tụi nó bóp họng ông
để lấy, bộ ông không thấy tức sao ?
Ông làm thinh. Ngừng một lúc như để suy nghĩ,
rồi bà nói một câu giống như bà đóng sập cánh
cửa sắt để nhốt ông trong một nhà tù :
- Chẳng bằng ông muốn ở lại để giúp
cách mạng chớ ǵ ? Phải không ?
Ông nuốt nước miếng mấy lần, rồi tiếp
tục làm thinh. Bây giờ, ông thật sự thấy ḿnh
như bọt nước trôi lêu bêu, không bám được
vào đâu hết?
Chiều bữa đó, cách mạng đưa đến
mười mấy thanh niên trai gái và một toán bảo vệ
cầm súng để làm công tác kiểm kê. Họ bắt mở
hết các hộc, các kệ, các tủ để họ
đem ra đếm từng món, không bỏ sót một
nơi nào hết, một món nào hết. Đêm, họ ngủ
lại trong nhà ông Lê Tư để sáng sớm hôm sau họ
tiếp tục. Xong công tác kiểm kê, người cán bộ
chỉ huy chỉ định một nhóm bốn người
ở lại để canh giữ những ǵ đă kiểm
kê, sợ ông bà Lê Tư ăn cắp mang đi ! Gă c̣n nói
như ra lịnh :
- Từ hôm nay trở đi, anh chị phải dọn ra nhà
sau để ở, không được bước lên
đây nữa. Anh chị cũng không được quyền
sử dụng chiếc ô-tô bây giờ thuộc diện quản
lư của Nhà Nước. Khi ra vào nhà, anh chị phải dùng
cái cổng hậu, không được đi bằng cổng
chánh. Rơ chớ ?
Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư cũng làm thinh. Nhưng hai sự
làm thinh đó không cùng một ư nghĩa : ông làm thinh v́ biết
rằng có nói ǵ cũng vô ích c̣n bà làm thinh là v́ bà hận ông
vô cùng !
Từ ngày dọn xuống ở trong một nhà phụ -có
ba dải nhà phụ trước đây dùng cho gia nhân- và từ
ngày biết rằng văn pḥng, các kho vật liệu, kho dụng
cụ cơ giới, biệt thự ở Núi Lớn Vũng
Tàu, các chương mục ở ngân hàng?v.v. đă hoàn toàn nằm
trong tay Nhà Nước, bà Lê Tư ít nói chuyện với ông.
Nhưng hầu như ngày nào bà cũng ngồi nói một
ḿnh, nói trổng, cố t́nh nói lớn tiếng để
cho ông "phải" nghe. Bà cứ lải nhải với
giọng trách móc chanh chua, hết chuyện tin lời cách mạng,
đến chuyện mất hết của cải, rồi
bắt qua chuyện di tản, chuyện ở "chui
rút" trong nhà của bếp của bồi. C̣n ông th́ cứ
làm thinh ngồi nghe, nghe riết mà tóc của ông càng ngày càng
bạc trắng !
Thời gian đi qua. Một hôm bà bỗng nói với ông :
- Tôi đă nhờ người quen trong toà đại sứ
liên lạc được với thằng Tuấn ở
Paris. Nó sẽ lo giấy tờ cho ḿnh qua bển.
Bây giờ, mọi sự đều do bà quyết định,
ông chỉ làm thinh đi theo. Bây giờ, người chồng
"thần tượng" của thời trước
chỉ c̣n là một cái bóng ! Bây giờ, bà mới là thân cây
cau, c̣n ông, ông chỉ là một thứ giây trầu... Đúng
là một sự "đổi đời vĩ đại"
!
Ít lâu sau, chính bà đă chạy chọt đút lót để
có xuất cảnh cho hai vợ chồng bay qua Paris, vào giữa
mùa hè năm đó.
?Ông Lê, người con trai của ông bà Lê Tư, đến
đoón ông bà ở phi trường Charles De Gaulle. Gặp lại
nhau, mừng mừng tủi tủi. Ông Lê Tư có cảm
tưởng như ḿnh vừa sống lại. Ông ôm con siết
mạnh, rồi buông ra để nh́n. Ḷng tràn sung sướng,
ông vừa cung tay đấm nhẹ lên vai con, vừa chửi
đổng : "Cha mày !". Rồi tiếp : "Ba
tưởng không c̣n gặp lại con nữa chớ !"
Trong một khoảnh khắc, ông t́m lại được
lời nói và cử chỉ của một con người
b́nh thường, con người của thời trước
tháng tư 1975.
Trên đường về nhà, ông Lê vừa lái xe vừa hỏi
về những chuyện đă xảy ra ở Việt Nam
trong những ngày sôi động của tháng tư, nhứt
là ở đoạn "mấy thằng Mỹ kéo nhau chạy
sút quần". Nghe lời nói và giọng điệu của
con, ông Lê Tư cảm thấy có "cái ǵ không ổn",
nhưng ông nghĩ : "Có lẽ tại nó ở bên nây lâu
quá nên nó nói tiếng Việt không biết chọn lời".
Rồi ông kể lại những ǵ mắt thấy tai nghe.
Người con lâu lâu khoái chí, vỗ tay lên tay lái, gục gặc
đầu "cho tụi nó chết". Bổng
người con hỏi : -
C̣n mấy thằng tướng nguỵ ? Câu
hỏi đó như ánh sáng bật lên trong bóng tối để
ông nh́n thấy rơ sự thật: không phải con ông không nói
rành tiếng Việt mà là con ông nghiêng về phía bên kia, cái
phía đă lật lọng, ăn cháo đá bát, cái phía đă lấy
hết tài sản của ông một cách ngang nhiên trắng trợn
! Trời đất chung quanh bỗng như sụp xuống
! Tuy nhiên ông vẫn trả lời:
- Mấy người đó th́ ba không biết.
- Tụi nó chạy ra đảo Guam hết. Thằng chủ
chạy th́ thằng tớ phải chạy theo chớ dám ở
lại đâu. Tưởng ba biết ǵ kể lại nghe
chơi chớ ở bên nây báo chí tê-lê nói đầy đủ.
Trên tê-lê thấy nhiều thằng tướng ngơ ngác
như bầy gà nuốt giây thun !
Người con nói xong cười lên khoái trá. Ông Lê Tư
nghe giận phừng lên mặt ! Ông đưa tay định
xáng cho thằng con một cái, nhưng ông kềm lại kịp.
Ông bỏ tay xuống mà nghe ngực ḿnh tức ran. Tự
nhiên, ông ứa nước mắt. Từ phút đó, ông làm
thinh. Thấy như vậy, tưởng cha bị mệt
v́ cuộc hành tŕnh quá dài nên ông Lê cũng không hỏi tiếp.
Bà Lê Tư ngồi ở băng sau, không chen vô một lời.
Bà cảm thấy rồi đây sẽ không thể nào ở
chung với một thằng con như vậy được.
Bà đă tưởng đi ra khỏi xứ để khỏi
phải thấy hằng ngày những chuyện trái tai gai mắt,
nào ngờ qua đây gặp thằng con không biết học
ở đâu mà ăn nói giống "tụi nó" y chang !
Nhưng không sao. Rồi bà sẽ mua nhà ở riêng. Bà dư sức.
Với số hột xoàn mà bà đă cất giấu sau 1975
và bây giờ đang nằm an toàn trong cái giỏ mây hai
đáy bà ôm trong ḷng, bà dư sức. Cho dù bà phải cưu
mang suốt phần đời c̣n lại ông chồng mà bà
đă không c̣n coi là thần tượng nữa, từ
lâu.
Về đến nhà -ở Neuilly Sur Seine, khu nhà giàu- ông Lê giới
thiệu vợ con rồi đưa cha mẹ lên pḥng trên lầu,
nói :
- Ba má nghỉ một chút rồi xuống ăn trưa.
Bữa ăn được dọn lên từng món theo phong
cách tây phương. Vợ ông Lê hỏi han lễ độ
và kín đáo chăm sóc ông bà Lê Tư. Hai thằng con ông Lê -giống
mẹ hơn giống cha nên ít thấy lai Việt- không biết
một tiếng Việt. Chúng ăn nhanh nhanh. Xong món thứ
nh́, chúng không đợi món kế tiếp, vội vă rút lên
pḥng. Suốt bữa ăn, câu chuyện chỉ vây quanh mấy
món ăn nấu theo tây, bởi v́ ông Lê khoe có bà bếp giỏi.
Bà bếp, người Pháp, có bước ra chào ông bà Lê
Tư.
Nhờ vậy, không khí trong bữa ăn không đến nỗi
nào tẻ lạnh.
Sau bữa ăn, vợ ông Lê v́ tế nhị, muốn để
cho chồng và cha mẹ nói chuyện riêng với nhau, nên xin
phép lên lầu. Bà dặn chồng :
- Anh không nên nói chuyện nhiều. Ba má chắc cần phải
ngủ v́ sai giờ giấc. Ḿnh c̣n nhiều th́ giờ mà.
Khi bước qua xa long để uống cà phê, ông Lê hỏi
:
- Ba má định qua đây ở chơi bao lâu ?
Ông Lê Tư châu mày, nh́n bà. Bà trả lời :
- Ba má định qua ở luôn chớ đâu phải ở
chơi.
Người con ngạc nhiên :
- Ủa ? Sao lại ở luôn ? Bây giờ nước nhà
độc lập rồi, không c̣n thằng nào ngồi trên
đầu trên cổ ḿnh hết. Tất cả đều
thuộc về ḿnh, không c̣n sợ thằng ác ôn nào cướp
giựt nữa. Như vậy mà ba má định bỏ xứ
qua đây ở luôn. Thiệt là vô lư !
Hồi năy, trên xe về đây, ông Lê Tư c̣n nghĩ rằng
thằng con ông chỉ nghiêng về phía bên kia. Bây giờ th́
quá rơ ràng : nó đă đứng hẳn về phía bên đó.
Ông nghe ḷng quặn thắt : chẳng những cách mạng
đă cướp hết tài sản của ông, mà tụi nó
c̣n cướp luôn thằng con duy nhứt của ông, cướp
từ hồi nào rồi.
Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư hơi mất b́nh tĩnh :
- Tại con không biết. Tụi nó lấy hết tài sản
của ba má rồi c̣n đuổi xuống ở căn nhà
của bồi, rồi lại bắt không được
đi cổng chánh phải đi cổng hậu. Bây giờ
tụi nó sợ ḿnh không chấp hành chỉ thị nên kéo kẽm
gai cô lập căn nhà ba má ở. Con nghĩ coi sống làm
sao ?
- Buổi đầu lúc nào chẳng có chuyện sai sót. Rồi
cách mạng sẽ trả lại hết cho ba má, yên tâm
đi ! Điều mà con muốn nói là chưa chi mà ba má
đă muốn bỏ xứ ra đi giống như bè lũ
đĩ điếm trộm cắp tháo chạy mấy
ngày trước giải phóng làm con thấy không hănh diện
chút nào hết !
Câu nói chưa dứt, ông Lê Tư đă đứng phắt
dậy, làm thinh đi thẳng lên lầu. Bà Lê Tư cũng
nối gót, nhưng bước chân bà nặng ch́nh chịch.
Đứa con máu mủ mà bà mới ôm hun thắm thiết hồi
năy trên phi trường, bây giờ bỗng giống như
người xa lạ. Bà cảm thấy hụt hẫng
đến độ bà không biết phải làm ǵ, nói ǵ.
Đến giữa cầu thang, kềm không được,
bà ôm mặt khóc tức tưởi.
Suốt buổi chiều, ông Lê Tư ngồi trong pḥng làm
thinh hút thuốc. Ông không nghe buồn ngủ, ông chỉ nghe
mệt - thật mệt - và chán chường - thật chán
chường. Ông bắt gặp lại tâm trạng của
ông vào những ngày cuối cùng của thời ông bị cách
mạng quay hằng bữa để ông kê khai tài sản một
cách "đầy đủ và trung thực" !
Bà Lê Tư cũng không ngủ. Bà điện thoại để
liên lạc mấy bà bạn đă định cư ở
Pháp, nhứt là ở vùng phụ cận Paris. Rồi bà hẹn
ḥ. Sung sướng như thấy chân trời đang mở
rộng.
Sau bữa ăn tối, đợi bà Lê và hai con lên lầu,
bà Lê Tư nói :
- Chị bác sĩ A sáng mai lại rước má về nhà chỉ
chơi vài bữa. Sau đó, có lẽ sẽ qua nhà bà dược
sĩ L. Ở đây, má có nhiều bạn bè lắm, con
đừng lo cho má. Con chỉ cần lo cho ba thôi.
Ông Lê Tư nh́n thẳng mặt con, giọng nghiêm trang :
- Ba nói thật : ba với con không hạp nhau. Ba không thể
ở chung với con được. Ba xin con cho ba ở một
nơi nào khác, ở một ḿnh cũng không sao.
Ông nói "xin con cho ba", đó là sự thật. Bởi
v́ bây giờ ông hoàn toàn trắng tay. Xưa nay, tiền
dư ra, ông cho bà một phần để mua hột xoàn,
c̣n bao nhiêu ông chuyển hết qua chương mục của
người con.
Ông Lê ngồi làm thinh, không biết ông đang nghĩ ǵ. Cũng
là làm thinh, nhưng sự làm thinh của ông khó hiểu
hơn sự làm thinh của ông bà Lê Tư !
Vậy rồi sáng hôm sau, bà bác sĩ A lái xe lại rước
bà Lê Tư. Tiếp theo là ông Lê chở người cha ra ở
cái nhà nghỉ mát ở gần bờ đá dựng. Suốt
cuộc hành tŕnh dài mấy tiếng đồng hồ, hai
cha con không nói với nhau một lời !
Từ ngày ra đây ở, ông Lê Tư cảm thấy cuộc
đời ḿnh như đang đi vào một ngơ bí. Không sống
được với cách mạng, đă đành. C̣n lại
bà vợ th́ bây giờ bả coi ḿnh như cục bứu
trên lưng. Rồi đến thằng con, đối với
ḿnh, nó c̣n lạ hơn người xa lạ ! Cứ nghĩ
quẩn nghĩ quanh như vậy hết ngày này qua ngày khác
mà con người ông sa sút thấy rơ. Bây giờ, ông ốm
nhom. Đi đứng đă phải chống ba-toon và
đêm đêm cứ phải nằm trằng trọc tới
khuya lơ mới dỗ được giấc ngủ. Thấy
tội nghiệp, ông bà Jean Marie hay thừa dịp
đưa nước trà hay cà phê để ngồi lại
gợi chuyện vẩn vơ. Họ cũng ngạc nhiên tự
hỏi sao không thấy ai gọi điện thoại hỏi
thăm ông già này hết. Làm như ông không có mặt trong cuộc
đời này. Cho nên họ tận t́nh chăm sóc ông từng
chút. Đến nỗi, về đêm, bà Jean Marie thường
đợi ông lên giường nằm đàng hoàng mới tắt
đèn đóng cửa đi về nhà ! Ông Lê Tư rất cảm
kích nên lâu lâu ông phá lệ làm thinh để nói hai tiếng
"cám ơn", nhẹ như hơi thở.
Một hôm, ông Lê Tư bỗng thèm nh́n mặt biển, cái biển
mà từ hôm ra đây -đă gần hai tháng- ông chỉ nghe tiếng
của nó ŕ rào ngoài kia thôi. Ông bèn chống ba-toon bước
từng bước run run đi lần ra hướng
đó. Cứ đi vài bước là ông phải dừng lại
một lúc để thở, nhưng ông vẫn cố
bước đi.
Bây giờ th́ ông đă đứng trên mép bờ đá dựng.
Dưới chân ông, rất sâu phía dưới, là biển. Biển
xanh dờn, kéo dài ra chân trời. Trời nước mênh
mông. Gió muối và mùi thơm thơm của rong rêu nhắc
ông nhớ cái biệt thự ở mỏm núi lớn Vũng
Tàu. Ông đă xây cất biệt thự đó để làm
nơi tiếp tân nên có một sân gạch thật rộng
hướng về phía biển. Ông hay đứng ở
đó nh́n chân trời như ông đang đứng nh́n chân
trời bây giờ. Cũng trời, cũng nước, cũng
một đường gạch ngang. Hồi đó, lúc nào
ông cũng thấy chân trời đang mở rộng cho ông,
cái hồi mà ông làm chuyện ǵ cũng thành đạt. Bây giờ,
cũng trời, cũng nước, cũng một
đường gạch ngang nhưng sao ông không thấy nó mở
rộng cho ông một chút nào hết ! Ông chỉ thấy toàn
là bế tắt. Chân trời là đường chấm dứt
một cái ǵ : trời cao nghiêng xuống đến đó là
hết, biển rộng vươn dài đến đó cũng
là hết ! Giống như cuộc đời của ông bây
giờ. Của cải: hết ! Vợ con: hết ! Sức
khoẻ của ông rồi cũng sẽ hết ! Hết ! Hết
!
Bỗng, ông Lê Tư liệng mạnh cây ba-toon xuống biển,
giống như ông dứt khoát không cần dùng đến nó
nữa. Rồi ông hít một hơi dài, nhắm mắt
bước thẳng vào khoảng không trước mặt,
giống như bước qua một lằn ranh tưởng
tượng.
Từ bây giờ, ông Lê Tư làm thinh vĩnh viễn.
Chiều hôm đó, ông Jean Marie gọi điện thoại về
Paris. Không có người bắt máy, nhưng có máy nhắn
tin nên ông nhắn : "A lô ! Tôi là Jean Marie. Tôi xin báo tin buồn
: ông cụ đă từ trần. Ông đi dạo gần
tường đá dựng chẳng may rơi xuống biển.
Nhà chức trách đă vớt được xác đem về
nhà xác bịnh viện Etretat. Yêu cầu ông bà ra gấp. Vợ
chồng tôi xin chia buồn. Thành thật chia buồn". Tiểu Tử
. |