con Mén
Trong khai sanh nó tên là Loan. Ở nhà gọi nó là con Mén, vì hồi
sanh nó ra nó chỉ cân được có hai kí lô tư. Bà nội
nó bồng nó trên tay, nhỏ xíu như một con mèo. Bà cười
văng cốt trầu : "Đu họ nó ! Thứ gì mà
như con chí mén !" Từ đó, gọi nó là con Mén luôn.
Nó bú sữa mẹ, nhưng vì nhà nghèo nên má nó không đủ
sữa, dặm thêm cho nó bằng nước cháo, cho nên nó
không mụ mẫm như phần đông các trẻ nít khác.
Nó cứ đèo đèo, lớn chậm và ốm tong ốm
teo.
Bà nội nó cưng nó lắm. Bởi vì ba má nó chỉ sanh có
con trai, một dọc ba đứa, phá phách đánh lộn
tối ngày. Bà nội nó thèm có một đứa cháu gái, nhẹ
nhàng dễ sai dễ bảo hơn. Bà thường nói :
"Có đứa cháu gái để tao có đi đâu nó theo
nó xách giỏ trầu". Một ước mơ rất
tầm thường nói lên nét bình dị mộc mạc của
tâm hồn các bà mẹ quê. Giống như mái nhà tranh chỉ
cần có bụi chuối sau hè, có ao bèo trước ngõ… Giống
như con rạch nhỏ, chỉ cần đều đặn
có nước lớn nước ròng…
Con Mén có thân hình óm o xấu xí nhưng lại có đôi mắt
sáng, linh động, với cái miệng nhỏ chu-chu cũng
dễ thương. Bà nội nó nói : "Cái ngữ này lớn
lên rồi phải biết. Nó hỗn dàng trời !". Nói
như vậy chớ bà ưa nhìn nó ngủ sau khi bú, nhả
vú ra rồi mà miệng vẫn còn nút nút.
Quê con Mén ở miệt Hậu giang một làng nhỏ nằm
xa tỉnh lỵ, xẻ đôi bởi một con kinh
đào. Vùng này chưa có đường xe chạy, nhưng
có nhiều sông rạch nên thiên hạ đi lại bằng
ghe to xuồng nhỏ. Hoặc đi bộ dọc theo bờ
nước hay băng ngang đồng vào mùa ruộng khô. Xa
xa, có những chiếc cầu gỗ bắc ngang kinh rạch,
nối xóm này qua xóm nọ. Cầu gỗ cao lêu-nghêu, chân dài
cắm sâu vào lòng nước như sợ nước lên
làm ướt thân cầu. Người ta qua lại không cần
lan can.
Xóm con Mén tên là xóm Cầu Ngang, một cái tên nghe rất thật
thà, làm như trên đời này còn có những cái cầu dọc
vậy ! Xóm nhỏ đó cũng có chợ nhà lồng lợp
tôn đơn-sơ. Vây quanh chợ là quán cà phê, tiệm chạp-phô,
tạp hóa, hàng vải… và một tiệm sách, gọi là tiệm
sách nhưng chỉ chuyên cho thuê tiểu thuyết, truyện
tàu.
Con Mén sanh ra ở đó. Khi nó biết đi biết chạy,
bà nội nó lúc nào cũng kè một bên, sợ nó té sông. Vậy
mà chẳng mấy lâu sau, nó biết lội hồi nào bà nó cũng
không hay, nó học lội với ai bà nó cũng không biết.
Mãi đến một hôm, trời nóng bức, con Mén nhảy
ùm xuống kinh làm bà nội nó la làng chói-lói. Đến khi
nhìn lại thấy nó lội như rái, bà mừng chảy
nước mắt. Lòng bà vui lắm nhưng bà cũng
chưởi đổng : "Mồ tổ cha mày !". Từ
đó, con Mén đi đâu một mình bà cũng yên tâm. Bà nói :
"Nó giống hệt thằng cha nó hồi nhỏ".
Lớn lên một chút, con Mén lúc nào cũng ở trần,
đi chân đất, chỉ mặc có cái quần xà-lỏn
ka ki. Nó vẫn ốm tong ốm teo, nhưng không thấy nó
bịnh bao giờ. Nó chơi với lũ trẻ hàng xóm,
chơi trò con trai như con trai. Vậy mà bà nội nó vẫn
ưa nó hơn là ba thằng anh của nó, bởi vì đêm
nào nó cũng chui vào ngủ với bà. Bà thích vuốt tóc cho
nó ngủ và thích nghe mùi thơm hơi thở của con Mén,
như ngày xưa, hồi còn trẻ, bà thích nghe mùi thơm của
lúa chín, gió ruộng đưa thoang thoảng vào nhà về
đêm…
Má con Mén mua đầu chợ bán cuối chợ. Kiếm
đủ nuôi mấy miệng ăn. Nghèo nhưng không
đói. Ba nó trốn lính một dạo, nhưng rồi cũng
bị bắt. Đi quân dịch, làm binh nhì, rồi đi
luôn không biết chừng nào giải-ngũ !
Ba nó đóng ở đâu miệt Sài-Gòn. Lâu lâu về phép, ở
nhà được vài hôm. Những hôm đó, con Mén khoái
lắm, bởi vì ba nó cũng cưng nó như bà nội nó vậy.
Sáng nào, ba nó cũng cõng nó ra tiệm cà-phê. Nó ngồi trên ghế
đẩu cạnh ba nó, đôi mắt chỉ cao hơn mặt
bàn một chút. Người lớn hay vò đầu nó, làm rối
bồng mái tóc bom-bê. Lúc nào nó cũng được ba nó gọi
riêng cho một tách sữa nhỏ. Sợ sữa nóng, ba nó
thường sớt ra dĩa cho mau nguội. Nó kê miệng
vào thành dĩa, hớp từng hớp nhỏ. Hai bên mép, sữa
đóng thành hai đường trắng hếu, nhưng mắt
nó ngời lên sung sướng. Những lúc đó, con Mén
đong đưa hai chân như người ta đuổi
ruồi…
Rồi một hôm, Việt Cộng về xóm Cầu Ngang, bắn
phá tơi bời suốt một đêm, sáng bữa sau rút
đi mất. Thiên hạ bắt đầu bàn tán. Trời
vừa sụp tối đã đóng cửa cài then. Đêm
đêm nằm ngủ phập phồng. Sáng ra nhìn nhau
lơ-láo. Nét thanh bình xóm nhỏ làng quê mất dạng lần
lần. Người ta bắt đầu tản
cư…
Ba nó về, đưa mẹ con nó lên Sài-Gòn. Bà nội nó ở
lại. Bà nói : "Tao già rồi, đi đâu chi ? Tụi
bây lo cho sắp nhỏ đi, đừng lo cho tao". Bà
nói cứng như vậy chớ lòng bà đau như dao cắt.
Bà biết : bầy vịt nhỏ và mấy gốc mận
gốc xoài không giúp được bà thường xuyên lên
thăm bầy cháu. Nhứt là con Mén, rứt nó đi y
như là cắt đi một núm ruột của bà. Hôm
đó, bà nội con Mén ăn trầu nhiều hơn mọi
ngày, hết miếng này là têm ngay miếng nọ, mắt
nhìn mãi bờ kinh, không nói. Đến khi đưa bầy
cháu xuống ghe, bà ôm con Mén vào lòng, hôn nó mà bà khóc ngất. Bà
dúi vào tay nó tờ giấy năm chục đồng xếp
nhỏ, nói trong nước mắt : "Nội cho con lên trển
mua bánh ăn". Nó nghe nồng lên mùi cốt trầu, mùi bà
nội nó, cái mùi mà nó đã quen thở đêm đêm khi gối
đầu lên tay bà để đi vào giấc ngủ. Nó ôm
bà mà khóc như mưa…
Ghe đã đi xa, ghe máy nên đi nhanh hơn ghe chèo. Bà nội
con Mén còn đứng ở bờ kinh, mắt rõi theo ghe mà
nghe như người bà bị tê dại. Kinh đào dài tun
hút. Ghe đã mất dạng từ lâu mà bà vẫn nhìn mãi về
phía đầu kinh. Tuốt ở đầu kinh - xa lắm
- có một lằn dài gạch ngang, người ta gọi là
chân trời… --oOo--
Ba con Mén hốt hụi vay nợ mua một căn nhà nhỏ
vách ván lợp tôn ở xóm Bộng, bên kia sông Khánh Hội. Gọi
là xóm Bộng bởi vì ở đó có cái ống cống thật
to để nước ruộng vào ra khi nước lớn
nước ròng. Dân nghèo tứ xứ tản cư về
đây, ngày một nhiều, nhà nho nhỏ cất dọc cất
ngang, mọc lên như nấm. Cứ có chỗ trống là cất
chen vào. Ngoài mặt lộ hết đất, họ cất
tràn ra ruộng. Nhà này tựa vào nhà kia như sợ ngã, sát
nhau đến độ không còn chỗ để làm
đường đi ! Muốn vào xóm, có đoạn đi
trên bờ đê – gọi là đê nhưng là bờ ruộng
cũ bây giờ người ta bồi rộng ra thêm một
chút – có đoạn đi trên mấy tấm ván gập gềnh
bắc ngang đường nước, có đoạn phải
bước hẳn vào nhà người ta để đi
qua. Nhà lụp-xụp thấp lè-tè nên cứ phải cúi
lom-khom, có khi bước cạnh vợ chồng người
ta đang nằm ngủ trong nhà, dưới đất !
Mái nhà con Mén thuộc vào hạng cũng khá cao trong xóm. Ba nó
phải đưa tay thẳng lên mới đụng. Nhà nó
được lót gạch bông phần nền đất,
còn nửa phần sau là đóng cừ lót ván. Ông chủ cũ
nói với ba con Mén : "Làm tới đó tôi hết tiền.
Thôi thì tạm một khúc nhà sàn, chừng nào cậu muốn,
cậu đắp nền thêm". Rồi ông đứng
trên sàn nhún-nhún : "Ván còn tốt, còn chịu được
năm ba mùa lận". Năm ba mùa đây có nghĩa là
năm ba mùa nước ngập. Những hôm mưa nhiều,
nước không chảy kịp ra sông, nước lên
lé-đé mặt sàn. Có nơi nước tràn vào nhà, ngập
mấy hôm mới rút. Những hôm đó, người ta treo
hết đồ lên nóc, treo vài cái võng để ngủ tòn
ten giữa vời…
Nhà con Mén không có đồ đạc gì nhiều : một
vài cái rương chất trong một góc, một cái tủ
nhỏ kê sát vào vách, quần áo máng trên mấy cây đinh
đóng trên vách đối diện, bếp dầu hôi sóng
chén dồn vào một góc phía sau. Cái gì cũng tấn vào vách
vào góc để chừa khoảng trống giữa nhà dùng
làm chỗ ăn chỗ ngủ. Phía sau nhà là sàn nước
lộ thiên. Nước chứa trong hai thùng phi nhà binh màu cứt
ngựa mà ba con Mén xin từ đơn vị đem về.
Tắm rửa giặt giũ ở đó, và về đêm,
phóng uế cũng ở đó luôn.
Khu này không có điện nước. Cho nên nhà nào cũng có
vài cây đèn dầu hôi và đôi ba thùng phi. Mỗi ngày, có xe
xi-tẹt đến bán nước- người ta gọi
là "đổi nước" – Họ kéo ống cao-su
nhỏ bằng cườm tay, chắp nối thật nhiều
khúc mới đủ dài để vào sâu trong xóm. Tiếng
máy bơm của họ kêu thật lớn, xành xạch xành
xạch điếc tai. Nhưng cũng nhờ nó mà người
trong xóm biết là xi-tẹt nước đến rồi !
Xi-tẹt nước chỉ "làm ăn" trong mùa
nắng thôi…
Về đây, con Mén ngủ với ba nó, ngủ trên võng. Má
nó và ba thằng con trai ngủ dưới gạch. Đêm
đầu, con Mén không chịu ngủ, cứ đòi về
bà nội. Nó ngồi bẹp dưới đất, khóc
ư-ử. Lâu lâu gọi một cách thảm não : "Bà nội
ơi !" Tiếng "ơi" của nó kéo dài ra, làm má
nó cũng nhớ nhà nhớ đất, nước mắt
chảy quanh. Ba nó thổi tắt đèn, vói tay ôm nó vào lòng,
nằm trên võng đong đưa dỗ : "Nín đi con,
nín. Ngủ với ba cũng giống như ngủ với
bà nội chớ gì. Rồi mai mốt bà nội con lên ở
với con nghen". Tiếng "nghen" bỗng nghẹn
ngang nơi cổ, ba nó kềm lắm mới khỏi phải
nấc lên. Tuy nhiên, trong bóng đêm, nước mắt cũng
âm thầm chảy dài trên má… --oOo--
Mỗi ngày, ba con Mén đi làm trong đơn vị, sáng
đi chiều về, đi bằng xe buýt. Má nó chưa quen
nước quen cái nên ở nhà vá áo nấu cơm. Anh em tụi
nó lân la làm quen lũ nhỏ trong xóm. Dù ở giữa lòng
thành phố, trò chơi của tụi nó vẫn mộc-mạc
thô-sơ như thuở còn dưới ruộng : bắn bi,
búng dây thun, lấy nút khoén làm mề-đai hay in cát giả
làm bánh.
Ít lâu sau, má con Mén được người hàng xóm giới
thiệu vào làm phu trong nhà máy ve chai bên kia sông. Mới đầu
còn bỡ ngỡ, làm sai làm trật. Chiều nào về, má nó
cũng buồn thiu, ra ngồi trên sàn nước, nhìn khoảng
trời mở ngỏ trên cao, lâu lâu thở dài. Nhưng lần
hồi má nó cũng quen tay, thêm tánh siêng-năng cần-cù, nên
mấy thầy giám thị cũng thương tình nâng đỡ.
Nhờ vậy má nó mới vững lòng tin ở ngày mai. Ngày
mai, đối với ba má con Mén, thật là giản dị
: "Chừng yên, mình về dưới bà nội tụi
nhỏ, lảnh mấy công ruộng mà làm cũng dư sống".
Cái hình ảnh của ngày mai đó, người tản
cư nào cũng nghĩ giống như nhau : yên rồi về
quê làm lại cuộc đời. Họ đã rời làng bỏ
xóm ra đi, đi để còn sống mà trở về,
nhưng họ vẫn mang theo trong lòng gốc dừa cây cau
chậu kiểng. Họ không bám được đất,
nhưng họ không để mất được gốc.
Chính tình cảm quê hương sâu đậm đó đã
giúp họ can-đảm nhận chịu cuộc sống tạm
bợ ngày hôm nay. Ngày qua ngày, họ mớm niềm tin bằng
hy vọng. Và ngày qua ngày họ nuôi hy vọng bằng niềm
tin ! Cứ lẩn-quẩn loanh-quanh như vậy cho đến
một ngày nào đó - chưa phải là cái ngày mai chờ
đợi - người già tắt thở với niềm
tin và trẻ con lớn lên không biết phải hy vọng ở
cái gì… Chỉ còn thế hệ của ba má con Mén là lây lất
sống trong lòng đô thị, ví mình như cây chùm gởi,
còn biết thế nào là niềm đau quê hương
nhưng vẫn mỏi mòn chờ đợi : "Ngày mai…
Ngày mai, rồi trời sẽ lại sáng". --oOo--
Mấy anh con Mén đều được đi học, chỉ
có nó là chưa. Có lẽ tại vì nó gầy còm nhỏ thó nên
ba má nó quên tuổi thật của nó đi, cứ nghĩ :
"Sang năm là đến phiên con Mén". Nhưng rồi
nó vẫn còi-còi như vậy hoài, có lẽ còn lâu mới
đi học !
Buổi sáng, ăn cháo xong là cả nhà đi hết. Con Mén ở
lại coi nhà. Tiếng là coi nhà chớ lúc nào cũng thấy
nó la-cà ở hàng xóm, làm bánh giả, búng dây thun. Nó búng dây thun
giỏi nhứt xóm. Đã khéo tay lại biết tính toán nên
ngày nào nó cũng ăn của trẻ con cùng lứa rất
nhiều dây thun. Về nhà, nó cho vào túi ni-long cất kỹ,
bởi vì vòng dây thun là "tiền" của tụi nhỏ.
Năm vòng thun "mua" được cái nút khoén lô-canh
(la-ve, nước ngọt) mười vòng thun một nút
khoén ngoại quốc (các loại chai nhập cảng) và phải
tới hai chục vòng thun mới có được lon cô-ca
không, thật hấp dẫn với nền đỏ
tươi in chữ trắng… Vòng thun có giá trị như vậy
cho nên đứa nào cũng ráng kiếm cho thật nhiều.
Rồi cũng giấu kỹ. Rồi cũng đếm tới
đếm lui, y như người lớn đếm tiền
thật.
Một buổi mai, con Mén mang bọc dây thun ra đầu ngõ
tìm bạn. Ở đây, có một quán cà-phê hủ tiếu
và vài hàng quà bánh điểm tâm. Một bà già bán xôi thấy bọc
ni-long dây thun con Mén nhét tòn ten ở lưng quần, bèn hỏi
:"Dây thun đâu nhiều vậy cháu ?". Nó trả lời
là dây thun của nó. Bà ta cười hiền hòa : "Vậy
hà. Chớ cháu có bán dây thun hôn, bà mua cho. Để cột mấy
bọc xôi ý mà". Ở đây, mấy người đi
làm sớm không có thì giờ ăn sáng, ghé qua mua gói xôi mang
theo để lúc nào tiện thì mở ra ăn. Xôi vẫn
được gói bằng lá chuối, nhưng sau đó
được cho vào bọc ni-long có sợi thun thắt lại.
Vừa sạch vừa gọn.
Nghe hỏi, con Mén phân vân. Tới tuổi này, nó chưa biết
đi mua một cái gì bằng tiền thiệt hết.
Huống chi nói đến chuyện bán ! Nó chỉ biết
giả mua giả bán nút khoén, hộp lon, trong thế giới
trẻ con nhiều tưởng tượng của nó
thôi. Tiền thiệt thì nó chỉ biết có tờ giấy
năm chục đồng mà bà nội nó cho nó hồi
đó. Nó đưa má nó cất rồi nó quên luôn tới giờ.
Thật ra, nó chỉ biết tờ giấy đó là tiền
nhưng chẳng biết giá trị là bao nhiêu và cũng không
biết dùng tiền đó để làm gì. Bởi vì, trong xã
hội trẻ con của nó, chỉ có dây thun là có giá !
Thấy nó đứng ngớ ra mà miệng cười mỉm
mỉm, bà bán xôi hiểu ngay, nên đề nghị :
"Như vầy nghen : cháu cho bà túi dây thun, bà cho cháu cục
xôi bự này nè". Nó nhìn theo tay bà chỉ : mèng ơi ! cục
xôi bằng "bắp đùi" nằm trong lá chuối
xanh láng mướt, ló ra hai đầu vàng hực có mấy
miếng dừa lòi ra trắng hếu. Nó nuốt nước
miếng, gật đầu. Vậy là lần đầu
tiên con Mén biết thế nào là buôn bán trong xã hội của
người lớn .
Từ đó, nó thường đem túi ni-long dây thun ra ngõ
"mua" xôi. Bà bán xôi thương nó lắm, bởi vì lần
nào nó mở hàng bà cũng đều bán đắt. Nhiều
hôm vắng nó bà cũng nhớ. Những hôm đó, con Mén
"hết tiền". Nhưng thèm xôi, có khi nó cũng mò
ra đầu ngõ, đứng xa xa nhìn thau xôi của bà lão.
Thau xôi được phủ kín lá chuối, nhưng trong
tưởng tượng nó cũng thấy được
màu xôi vàng hực ! Thấy tội nghiệp, một hôm bà
bán xôi gọi nó lại, đưa nó tờ giấy bạc
: "Nè ! Lấy tiền này mua xôi mở hàng cho bà đi
cháu". Nó làm theo như cái máy. Bà bán xôi cảm động,
kéo nó ngồi xuống cạnh bà. Nó ăn xôi, mắt ngời
lên sung sướng. Nó ốm nhom nhưng gương mặt
nó thật kháu khỉnh. Mái tóc bom-bê cắt ngắn làm cho cổ
nó dài ra. Bà vuốt tóc nó, nghĩ : "Con nhà ai mà dễ
thương quá !". Được bàn tay khẳng khiu của
bà già vuốt tóc, bỗng nhiên con Mén nghe nhơ-nhớ một
cái gì. Một cái gì không rõ lắm nhưng là một cái gì thật
quen thuộc. Hình như là một cảm giác êm êm, khoái khoái,
một cảm giác mà từ lâu- rất lâu - nó không nghe thấy
nữa. Nó mang máng nhớ một cái gì xa thật xa, một
hình ảnh, một cái tên, một người… Nó ngừng
nhai, miếng xôi trong miệng đội phồng một
bên má. Nó nhìn lên mặt bà bán xôi : má hóp, trán nhăn, tóc lưa
thưa bạc. Đúng lúc đó, từ tiềm thức của
nó bật lên hình ảnh của bà nội nó. Chỉ trong có một
giây mà nó nhớ lại hết : từ bàn tay vuốt tóc, từ
cánh tay gối đầu, từ mùi cốt trầu
hăng-hăng mà nó ghiền thở đêm đêm để
ngủ. Nó nghe nghẹn ở ngực. Nó nghe như muốn
khóc. Môi dưới nó trề ra. Miệng nó méo xệch. Nó
buông cục xôi, đứng lên chạy ù vào ngõ. Vừa chạy,
vừa kêu từng tiếng thật rã-rời : "Bà…nội…ơi…
!" Tiếng "ơi " của nó kéo dài ra trong xóm, nức
nở như một đường cày trên mặt ruộng… --oOo--
Việt Cộng về chiếm hết mấy làng, trong
đó có xóm Cầu Ngang của con Mén. Ít lâu sau, có tin bà nội
nó chết. Ba má nó không dám về chịu tang, chôn cất, phần
vì không có tiền, phần vì sợ Việt Cộng. Ba nó lấy
một cái rương kê vào giữa vách, đặt lên
đó một chén gạo và hai cây đèn cầy. Đốt
đèn, đốt nhang cắm vào chén gạo, xong, ba má nó vừa
lạy vừa khóc. Lần đầu tiên con Mén thấy ba
nó khóc. Không biết gì, nhưng sao nó cũng muốn khóc theo.
Mấy thằng anh nó ngồi xếp bằng một hàng, im
thin thít. Sau đó, ba nó ôm nó vào lòng, ngồi nhìn khói nhan và hoa
đèn lâu thật lâu. Nó hết nhìn cái rương lại
nhìn mặt ba nó.Tự nhiên nó thấy thương ba nó vô
cùng.
Mãi sau này con Mén mới biết cái rương đó là bàn thờ
bà nội nó. --oOo--
Bây giờ, con Mén cũng được đi học. Bây giờ,
ba nó cũng sắm được chiếc xe đạp
để đi làm. Má nó thì vẫn đi đò ngang để
qua nhà máy ve chai. Mấy anh nó, vì trường cũ hết lớp
phải qua trường khác xa hơn, vẫn đi bộ.
Má nó đã lên cấp thợ, nhờ vậy mà trong nhà thấy
dễ thở hơn, sắm thêm một số đồ
đạc và má nó có đeo một sợi dây chuyền… Chớ
ba nó thì vẫn còn lẹt-đẹt ở cấp binh nhì, loại
binh nhì dùng sai vặt trong văn phòng, đơn vị.
Nhờ đi học, con Mén mới biết nó tên thật là
Loan. Hôm đưa nó vào trường, ba nó dặn : " Khi
nào cô giáo điểm danh, kêu Lê-thị-Loan thì con hô lớn
lên có mặt. Nghe con ! "Nó ngạc nhiên : "Ủa ? Con
tên là Mén mà !" Ba nó phải giải nghĩa rằng Loan là
tên trong còn Mén là tên ngoài, ra đường mình lấy tên
ngoài chớ vào trường là phải lấy tên trong vân
vân… Đối với nó, ngoài trong gì lộn xộn quá. Nó chỉ
biết rằng tên Loan nghe thật dễ thương
nhưng lạ hoắc, còn Mén thì thật là quen tai. Tuy nhiên,
có cái tên dễ thương, nó cũng nghe lòng phơi-phới.
Nhờ đi học, con Mén hết ở trần, hết
đi chân đất, nhưng tóc vẫn hớt bom-bê cao. Nó
đội nón vải có bo như tai bèo, mặc áo trắng
tay phùng quần dài đen, chân mang dép Nhựt. Bây giờ, thật
sự nó mới có nét con gái ! Ba nó nhìn nó trìu mến : "Mẹ
họ ! Con gái của ba coi cũng đặng ớn !"
Rồi ba nó hôn nó đầy mặt. Nó rút cổ lại vì
nhột, cười khúc-khích. Tình thương đâu đó
bỗng trào dâng miên man. Giống như nước triều
lên ôm xóm Bộng, âm-thầm nhưng thật là chan-chứa.
Con Mén càng lớn, ba nó càng cưng nó nhiều. Bởi vì nó
thông minh, học giỏi. Và bởi vì nó mang nhiều nét của
bà nội nó. Ba nó thường nhìn nó, nói : "Thứ gì mà
giống bà nội như in !" Điều mà ba nó không
để ý là con Mén còn giống bà nội nó ở chỗ
hay chửi đổng "Mồ tổ cha nó !" mỗi
khi nó bực mình chuyện gì. Có lẽ tại vì nó chửi lầm-bầm
nên ba nó không nghe.
Mấy anh con Mén đi học buổi sáng, nó đi học
buổi chiều. Thành ra lúc nào trong nhà cũng có đứa
học ê a, đứa nằm sấp xuống gạch nắn-nót
làm bài. Hầu hết tụi nhỏ trong xóm đều học
chung một trường, nên đi và về cùng một lúc,
đứa trước đứa sau đi thành một hàng
dài. Đến khi tụi nó học bài cũng nghe uềnh-oang
như tiếng ễnh-ương vào mùa nước nổi.
Trưa, con Mén cuốc bộ đi học. Chiều ba nó
đi làm về, đạp xe ghé ngang trường rước
nó. Những lúc đó nó thấy hãnh-diện vô-cùng. Ngồi
trên bọt-ba-ga, cặp táp đeo lủng lẳng ở cổ,
hai bàn tay nhỏ nắm lấy dây nịt của ba nó để
giữ thăng-bằng, nó nói chuyện huyên-thuyên, hỏi ba
nó đủ thứ. Ba nó lúc nào cũng có câu trả lời,
cũng góp vào câu chuyện rất hào hứng chớ không phải
ậm-à ậm-ừ. Cho nên, đối với nó, trên đời
này chỉ có ba nó là nhứt !
Vậy mà thời gian sau này, ba nó bị cấm-trại
liên-miên. Nó đành đi học một mình và về một
mình. Tối, nó ngủ một mình ên trên võng. Bây giờ nó lớn,
nên không gào khóc như thuở nó mới xa bà nội nó.
Nó biết xấu hổ, nên úp mặt vào chiếc áo nhà binh
của ba nó âm thầm khóc rấm-rứt. Rồi một lúc
nó cũng ngủ thiếp đi, ôm chiếc áo như ôm
lưng ba nó vậy. --oOo--
Việt Cộng tràn về chiếm hết miền --oOo--
Ít lâu sau, con Mén đã biết Việt Cộng là gì. Nó cũng
bắt chước người lớn, gọi trổng là
"họ", chớ không hiểu rằng tiếng "họ"
mà người lớn dùng có ý nghĩa mỉa-mai cay đắng,
bởi vì bây giờ mới thấy giữa "họ"
và "mình" có quá nhiều dị-biệt.
"Họ" bây giờ tên là "cách-mạng". Ba con
Mén bây giờ bị "họ" gọi là "ngụy
quân". Má con Mén bây giờ lúc nào cũng tự xưng là
"vợ ngụy" mặc dù thuộc thành phần công
nhân lao động.
Xóm Bộng bây giờ cũng đổi thay bề mặt.
Vựa gạo của chú Chành -người Tàu- bị tịch
thu để biến thành trụ sở "Ủy ban nhân
dân". Người lạ ở đâu về đó làm chủ
tịch, thơ-ký. Chú Năm hớt tóc đầu ngõ bỗng
thành ông "tổ trưởng", còn bác Bảy thợ hồ
được thiên hạ gọi bằng "tổ phó an
ninh". Chỉ có dân trong xóm vẫn còn là dân trong xóm ! Thiên hạ
"nhong nhóng" đợi một thời gian coi tình hình
ra sao, nhưng rồi ít lâu sau cũng chẳng thấy ai rục
rịch dọn về quê về làng. Mong ước bình dị
"yên rồi, về quê sanh sống" - một mong ước
được chắt chiu nuôi dưỡng từ bao nhiêu
năm - bây giờ giống như bọt nước bờ
sông từ từ tan rã. Cái "Ngày mai trời lại
sáng" bây giờ thật sự chỉ là một giấc
mộng ! Thiên hạ thường chép miệng : "Ở
dưới quê họ cũng tịch thâu hết rồi. Về
làm cái khỉ gì ? Ở đâu cũng vậy thôi !". Dân tản
cư bỗng thấy mình như bị mồ côi, vĩnh-viễn
bị cắt đứt với gốc dừa cây cau chậu
kiểng. Từ thân chùm gởi họ đã trở thành
đám lục-bình. Xóm Bộng mặc-nhiên thành điểm tựa
để đám lục bình bám vào đó làm một quê
hương , đất đứng.
Người trong xóm bây giờ thấy gần gũi nhau
hơn. Làm như là không phải dân tứ xứ đến
đây, mà như là tất cả đều sanh trưởng
ở xóm Bộng. Bây giờ họ mới nhận thấy
rằng họ giống nhau từ suy-tư đến nếp
sống, từ cách ăn mặc đến lời lẽ
nói năng. Họ không biết rằng biến thiên của
thời cuộc đã cho họ có một đối tượng
- thế giới cộng sản và con người cộng
sản - để nhận-xét và so-sánh. Đối tượng
đó bây giờ thật rõ nét, không còn được ngụy-trang
bởi những mỹ-từ. Cho nên họ nhìn thấy không
điểm nào giống họ hết, từ con người
đến phong tục tập quán. Tự nhiên, họ cùng
đứng về một phía và họ còn thấy cần tựa
vào nhau để sinh tồn. Cũng giống như nhà của
họ ở : phải xây cất bám vào nhau, kèo cột câu vào
nhau, phên vách nối vào nhau để đứng vững.
Xóm Bộng chưa bao giờ biết bão lụt, nhưng
trong nội tâm người xóm Bộng bây giờ đang bão
lụt tơi-bời… --oOo--
Ba con Mén đi học tập ba hôm rồi về nằm nhà
gác tay lên trán. Má nó vẫn đi làm. Anh em nó vẫn đi học.
Thời gian sau, ba nó cũng kiếm được việc
làm ở bến tàu Khánh-Hội, sáng đi chiều về.
Đêm đêm, ba má nó thay phiên nhau đi họp phường
hoặc họp tổ. Lâu lâu, thằng anh lớn của nó
đại-diện ba má ra phòng họp ngồi cho có mặt.
Những lúc đó, thấy nó mang theo hoặc quyển sách hoặc
cuốn tập để thừa dịp có đèn sáng mà học
bài cho ngày hôm sau…
Bỗng một đêm, công an khu-vực cầm đèn bấm
đưa bộ đội đến bắt ba con Mén dẫn
đi. Cả xóm nhốn-nháo trong bóng tối. Má nó chạy
theo kêu khóc, trợt bờ đê té lên té xuống. Đến
đầu ngõ có đèn sáng, ba nó nói với má nó : "Chắc
họ bắt lầm, chớ anh không có làm gì hết. Em yên
tâm."
Ở nhà, mấy anh em nó thắp đèn rồi ngồi nhìn
nhau mếu-máo. Hàng xóm thay nhau đến ngồi với tụi
nó cho đến khi má nó trở về, đầu cổ
bơ phờ quần áo lấm lem bùn đất. Họ an ủi
má nó, xì-xầm bàn-tán cho tới khuya mới ra về.
Đóng cửa tắt đèn từ lâu mà con Mén nằm trên
võng còn nghe má nó khóc thút-thít. Nó cảm thấy thương má
nó, thương ba nó. Rồi nó đâm tức giận mấy
thằng công-an bộ-đội. Kềm không được,
nó buột miệng chửi lớn :"Mồ tổ cha nó
!". Tiếng của nó lanh-lảnh, sắc bén, rạch
bóng đêm như một lưỡi dao lam. Má nó giật
mình, ngừng khóc, vói tay mò-mẫm rờ đầu nó. Nó nắm
lấy bàn tay áp vào một bên má như muốn chia sớt niềm
đau. Má nó bỗng nghe bàn tay mình ươn-ướt.
Mấy hôm sau, vẫn không thấy ba nó về. Trái lại,
công an khu vực đến thăm má nó thường
hơn. Và lần nào cũng khuyên : "Chị cứ yên tâm.
Nếu nhà nước xét thấy anh ấy không có nợ máu
với nhân-dân, anh ấy sẽ được thả về
thôi. Ta sáng suốt chớ không ác-ôn như ngụy đâu, chị
ạ !"
Ít lâu sau, có tin ba con Mén bị đưa đi học tập
cải-tạo ở đâu ngoài Trung. Má nó khóc hết nước
mắt. Tên công-an khu-vực lại đến nhà khuyên :
"Đi học tập chớ đi tù đâu mà chị sợ.
Cứ học tập tốt là được về ngay
thôi. Yên chí !" Thoáng nghe như vậy, con Mén tức cành
hông. Nó nhìn tên công-an chỉ có nửa con mắt ! --oOo--
Má con Mén bị "họ" cho nghỉ việc. Gọn
như liệng một món đồ vô dụng vào sọt
rát ! Tên thủ-trưởng gọi má nó vào văn phòng, nói bằng
một giọng trắng nhách như vôi : "Tập thể
đã nhất trí cho chị nghỉ việc ngay từ bây giờ,
bởi vì chị không còn đủ điều-kiện
để phục-vụ nhân-dân nữa. Chị lấy hết
đồ đạc của chị rồi đi về
đi."Đồ đạc là cái áo, cái khăn lông, cái
nón lá và đôi dép cao su đúc. Một tên an-ninh đi theo
đến cổng, dặn : "Chị đừng trở
lại đây làm gì nữa. Không tốt đâu". Má nó lầm
lủi đi, chẳng nói chẳng rằng. Cũng chẳng
nhỏ một giọt nước mắt. Bởi vì má nó
đã chuẩn bị tinh thần từ ngày biết tin ba nó
đi học tập cải tạo. Dưới chế-độ
cộng-sản, đã là vợ con của "ngụy "
là phải biết dọn mình chịu đựng sự kỳ-thị
của kẻ cầm quyền…
Khi má con Mén về đến nhà thì tụi nhỏ đã
đi hết, đứa đi học, đứa đi
lao-động trong trường. Má nó bèn dọn dẹp
đồ đạc rồi nấu cơm một cách thản
nhiên như chẳng có gì xảy ra hết. Bình thường,
má nó không về giờ này, nên hàng xóm để ý. Vài người
chạy sang hỏi han như trong gia đình : "Bộ có
chuyện gì sao mà má con Mén về nhà giờ này vậy ?"
Hỏi, nhưng trong lòng họ đã đoán ra câu trả lời
hết chín phần mười. Má nó cũng nghe an-ủi
: "Dạ thì họ đuổi chớ sao ! Ngụy mà ! Kể
số gì ?" Rồi má nó cười thật mỉa mai. Một
bà già phát tức, phun cốt trầu cái phẹt : "Hứ
! Cái giống gì mà thiệt vô nhân đạo. Người ta
đã nghèo, một thân một mình làm nuôi bầy con mà cũng
đuổi cho đành !" Một bà khác thêm vào : "Thôi
đi ! Nói gì cái thứ đó ! Mồ ông mả cha của
tụi nó mà tụi nó còn coi không ra gì thì nói chi tới bà con
mình". Nghe mấy tiếng "bà con mình" bỗng nhiên
má con Mén mủi lòng, chảy nước mắt. Từ ngày
bỏ xóm Cầu Ngang tạm cư ở xóm Bộng này, mặc
dù có chồng con ở một bên, má nó vẫn nghe
bơ-vơ lạ-lùng. Má nó thấy thiếu con kinh đào bờ
đê thẳng tấp, thiếu chiếc cầu gỗ nhón
cao chân dài, thiếu màu vàng ruộng lúa, thiếu mùi thơm
bông cau, thiếu họ-hàng ruột thịt… Những thứ
mà má nó đã thở từ những hơi thở đầu
đời. Những thứ mà má nó đã nhìn từ khi nụ
nhìn biết phân biệt. Tất cả, tất cả đã
trở thành nhịp sống của chính bản thân của
má con Mén. Mất đi những thứ đó, má nó cảm thấy
như bị tách biệt ra khỏi cuộc đời này…
Xóm Bộng tuy hiền, nhưng trước đây người
cùng xóm đối xử với nhau còn nhiều dè-dặt,
ít qua lại với nhau, gặp nhau chào hỏi xã-giao lấy
lệ. Do đó, mặc dù sống trong xóm nhỏ đông
người, má con Mén vẫn thấy như mình sống lẻ
loi giữa đồng giữa ruộng. Niềm đau
đó má nó dìm sâu trong nội tâm từ bao lâu nay, bây giờ mấy
tiếng "bà con mình" thật chất-phác nhưng thật
gần gũi, thật đậm đà tình lân lý, đã mở
ngỏ khơi nguồn. Má nó khóc mà nghe lòng thật ấm-cúng
và cũng thật là thênh thang trải rộng. Giống
như ruộng lúa xóm Cầu Ngang được ươm
vàng dưới nắng, cuối mùa mưa… --oOo--
Biết thân phận mình không làm sao tìm được việc
làm ổn định, dù làm phu quét đường đổ
phẩn, má con Mén cầm thế một mớ nữ
trang quần áo rồi đi buôn đầu chợ bán cuối
chợ. Tưởng giống như ngày xưa ở dưới
quê, té ra thật là chật vật. Ở đây và bây giờ,
có một trăm người bán nhưng không có một vạn
người mua. Quá nhiều người bán bởi vì những
người này một số không chịu đi làm cho chế
độ, một số bị chế độ sa thải
đành buôn bán lắt nhắt để kiếm sống.
Quá ít người mua bởi vì thiên hạ không còn tiền…
Anh em con Mén cũng đã nghỉ học, ở nhà giúp má tụi
nó bằng cách đi bươi đống rác lượm
ve chai, giấy vụn, bao ni lông… Má con Mén cắt bao bố tời
may lại thành túi nhỏ cỡ bằng ba giỏ đi chợ,
có hai quai để tụi nó mang vào vai vào cổ. Mấy
đứa lớn mang ba túi mỗi đứa, mấy đứa
nhỏ tùy bữa mà đeo khi một khi hai. Đứa nào cũng
cầm một que sắt đầu uốn cong như cái
móc. Thằng lớn hay đùa : "Tụi mình bây giờ
thành Cái Bang hết. Tao là trưởng lão ba túi, còn tụi
bây là đệ tử. Mỗi ngày tủa ra đi hành hiệp
trên mấy đống rác thành phố Hồ Chí Minh quang vinh
!" Rồi tụi nó cười vui như chẳng biết
phiền lụy là gì.
Má con Mén thì khác. Ưu tư nằm ngay trong ánh mắt nụ
cười. Những đêm trằn trọc đã đào
sâu đôi má. Càng ngày, con người càng héo hon. Tuy nhiên, chẳng
bao giờ nghe má nó mở miệng than một lời. Thấy
tội nghiệp, hàng xóm thừơng qua thăm mẹ con
con Mén để phụ tụi nhỏ lựa ra và xếp
riêng thành đống miểng chai theo miểng chai, ni long
theo ni long, giấy theo giấy v.v… Lâu lâu họ cũng mang
cho vài khúc mía, trái dừa hoặc mấy nhúm tôm khô. Có gì cho nấy,
không còn nề hà dở ngon hay nhiều ít. Má con Mén đều
nhận hết, không bao giờ từ chối đẩy
đưa. Bây giờ, làm như là người ta sống thật
tình với nhau hơn hồi trước. Làm như là thiên
hạ cần có nhau như hơi thở cần cho cuộc
đời. Có lẽ bởi vì họ đã mất tất cả
những gì họ đã có, bây giờ họ chỉ còn lại
có nhau thôi…
Lần hồi rồi má con Mén cũng phải bán đi chút
đỉnh đồ đạc trong nhà để đủ
có miếng ăn cho lũ nhỏ. Lúc này tụi nó lớn thấy
rõ, mặc dù ăn uống kham khổ. Mấy bà hàng xóm
thường nói : "Trời sanh, trời nuôi". Mà thật,
tới con Mén cũng cao lên, tuy vẫn còn gầy. Tay chân
hơi ghẻ lở nhưng gương mặt vẫn kháu
khỉnh nhờ mái tóc vẫn hớt bom-bê cao. Nó không chịu
để tóc dài. Mỗi lần má nó đề nghị
"Để tóc dài đi con cho nó thành con gái" nó lắc
đầu nguầy nguậy, tóc bom-bê xòe ra như rẻ quạt
: "Nực thấy mồ…" Mấy hôm đầu
đi bươi rác, nó còn mang dép Nhựt. Sau đó, nó lượm
một mớ giày Bata rách mũi, chọn được hai
chiếc vừa chân thì một xanh một vàng. Nó mang vào, hí hửng
: "Kệ nó ! Khác màu như vậy khỏi sợ chúng nó
ăn cắp". Rồi nó đem đôi dép Nhựt rửa
sạch, cất kỹ. Không ai hỏi, nhưng nó vẫn giải
thích : "Để giành mai mốt có đi học lại,
có mà mang" Nghe nó nói, thằng anh hai nó nhìn nó rất lâu, bồi
hồi xúc động. Anh nó nhận thấy con Mén không còn
là con nít nữa. --oOo--
Má con Mén có một người chị ruột tên Ánh -Nguyễn
Thị Ánh- hồi đó nấu bếp cho vợ chồng một
ông Tây. Khi gia đình ông này dọn về xứ, chị Ánh cũng
đi theo họ rồi ở luôn bên đó. Ít lâu sau, có tin chỉ
lấy chồng người Pháp rồi hai vợ chồng
đưa nhau qua làm ăn ở Phi-Châu. Chỉ cũng
đã vào quốc tịch Pháp và đổi tên là Anne – bà Anne
Brioude.
Khi má con Mén bắt đầu cạy gạch bông nền nhà
lên bán để độ nhựt – thằng anh con Mén
nói "hết ăn tủ tới ăn rương, bây giờ
tụi mình ăn tới gạch !" thì chị Ánh ở
bên tây về kiếm thăm. Ông chồng khuyên không nên về
sợ gặp khó khăn, nhưng chỉ vẩn quyết
định : "Tôi phải về kiếm tụi nó coi ra
sao. Nghe nói bây giờ bên Việt Nam dân chúng đói khổ lắm".
Rồi chị mua thật nhiều hàng vải quà cáp làm
như gia đình chị bên nhà còn rất đông. Thật
ra, chị Ánh chỉ còn có má con Mén là ruột thịt,
nhưng mười mấy năm xa cách đã làm cho tình
thương trong lòng chị thật mênh-mông, không bờ
không bến, đến độ chị không đo lường
được nữa không phân biệt được nữa
đâu là tình thương em đâu là tình thương quê
hương…
Về Sàigòn – chị Ánh vẫn gọi là Sàigòn vì thói quen – chị
ở khách sạn Hữu-Nghị. Ngày ngày chị đi dò hỏi
tin tức má con Mén, từ những người quen xa xa chỉ
qua những người cùng gốc ở Cầu Ngang
nhưng đã lên làm ăn ở thành thị từ trước…
Cứ phăn lần phăn lần rồi chị Ánh cũng
tìm ra xóm Bộng. Đến đây, chị gặp một
trở ngại lớn : người trong xóm không biết ai
tên là Nguyễn thị Hoa hết. Chị giải thích dài dài
: "Nó nhỏ nhỏ con, người tròn trịa trắng
trẻo, năm nay chừng băm mấy chớ chưa già
lắm" Chị tả hình dáng của người em gái
cách đây đã mười mấy năm, cái thời mà hai
chị em còn ở dưới quê, trưa trưa hay ra ngồi
trên cây dừa bắt ngang đường nước, thọc
chân trong nước mát, đong đưa kể chuyện
tâm tình… Hình ảnh đó, chị đã mang đi và giữ vẹn
cho đến bây giờ, quên mất là thời gian đã
đi qua và nét đời đã bị bôi đi vẽ lại
! Không ngã lòng, chị tìm cách nói với mấy bà già trong xóm :
"Cháu tên là Nguyễn thị Ánh, con em cháu tên Nguyễn thị
Hoa. Tụi cháu dân ở Cầu Ngang, miệt dưới…"
Địa danh Cầu Ngang đã giúp mấy bà nghĩ ra má
con Mén. Một bà hỏi : "Có phải cô đó có bốn
đứa con không ?" Chị Ánh mừng rỡ :
"Đúng rồi ! Người ta nói nó có bốn đứa
con, ba trai một gái !" Bà già gật đầu : "Vậy
là má con Mén rồi !" Trước khi chỉ đường,
bà trách nhẹ : "Kiếm má con Mén thì nói kiếm má con Mén
! Cô cứ nói Nguyễn thị Hoa hoài, ai mà biết ai !"
Vậy là hai chị em gặp nhau. Gặp nhau thật là ngỡ-ngàng.
Quá nhiều thay đổi để nhìn ra nhau ngay và xa cách
đã quá lâu nên tình cảm bị chìm sâu trong tìm thức. Phải
một vài giây im lặng để tìm lại những nét cũ
trên gương mặt bây giờ và để những tình
cảm bị bỏ quên từ ngày xưa được trả
về với hiện tại. Sau phút ngỡ ngàng hai chị
em ôm chầm lấy nhau, khóc nức-nở. --oOo--
Chị Ánh đã quyết định : gia đình con Mén phải
qua Phi Châu ở với chỉ. Nhìn tay chân ghẻ lở của
bầy cháu, nhìn gương mặt già trước tuổi
của đứa em, chị nghe bất nhẫn vô cùng. Chị
nói : "Không được ! Ở lại đây tụi
bây cùi luôn, ngu luôn. Qua bển tao lo cho hết. Còn
ba tụi bây, từ từ rồi tính sau“ Rồi chị sắp
đặt : ”Chị để lại một mớ tiền,
em lo liệu cho mấy đứa nhỏ và đi thăm
nuôi chồng em. Chừng chị về bên đó, chị sẽ
gởi tiếp thêm để em chạy lo giấy tờ. Tốn
bao nhiêu thì tốn, nhưng phải đi khỏi xứ này
gấp”. Má con Mén như người không biết lội vừa
chìm xuống nước ngoi lên ôm được cái phao,
nhìn trời cao lồng lộng bên trên mà cảm nhận cuộc
sống này vẫn còn có lối thoát. Chị
Ánh trở về Pháp. Tụi nhỏ vẫn tiếp tục
bươi đống rác ngày ngày để đừng ai
để ý. Má con Mén chạy chọt dò dẫm rồi cũng
tìm ra trại học tập của chồng. Lần
đi thăm nuôi đầu tiên, con Mén có đi theo. Thấy
ba nó gầy nhom, nó rớt nước mắt. Má nó kể
chuyện dì Ánh cho ba nó nghe, ba nó vừa ngạc nhiên vừa
mừng rỡ. Nhưng khi nghe hỏi ý kiến về vụ
cho mấy đứa nhỏ sang Phi Châu, ba nó bỗng im lặng
nhìn ra bìa rừng làm như câu trả lời nằm ở
đâu ngoài đó. Một lúc sau, ba nó nói, thật trầm tĩnh
: ”Ờ… tính như vậy cũng được. Cho mấy
đứa nhỏ nó có tương lai…” Rồi ba nó cầm
lấy hai bàn tay nhỏ của nó, vừa bóp nhẹ vừa
nhìn nó thật lâu. Nó cũng nhìn ba nó : chưa đầy một
năm mà ba nó già đi nhiều, mắt sâu xuống, gò má nhô
lên, râu tóc rối bời… Ba nó đã làm tội tình gì mà “tụi
nó”đày đọa ba nó ra như vậy ? Rồi nó nhìn ra mấy
thằng bộ đội đứng lớ-ngớ ngoài
kia, môi nó mím lại,mắt nó lồi ra : nó muốn lấy
que sắt cào bươi "tụi nó” tả tơi
như nó nó đã cào bươi mấy đống rác !
Từ đó, con Mén biết thế nào là hận thù… --oOo-- Dì
Ánh đã gởi về đầy đủ giấy tờ,
má con Mén cũng đã nạp hồ sơ xin xuất cảnh
qua Côte d’Ivoire (Phi Châu). Nhờ có tiền gởi về, má nó
chạy chọt đút lót nên cũng không gặp nhiều
khó khăn. Cho đến ba con Mén bây giờ cũng
được các cán bộ dành nhiều dễ-dãi. Thời
gian qua mau, mới đó mà đã hai năm mấy. Khi ba con
Mén được thả về thì mẹ con tụi nó chỉ
còn chờ ngày lên máy bay. Ba nó về mà có cảm tưởng
như được đặc-cách cho về để
đưa vợ con đi vậy. Bởi vì, sau đó, ba nó
vẫn sẽ phải sống chật-vật một mình
trong một vùng kinh-tế mới nào đó, và tuy không còn ở
trong trại nhưng vẫn ở lại trong xứ thì cũng
giống như bị giam trong một trại tập trung
khổng-lồ. Ngày
ba nó trở về, căn nhà nhỏ bỗng trở nên quá
nhỏ để tiếp những người hàng xóm. Ai cũng
mừng cho gia đình con Mén, mừng thật sự, bởi
vì đối với họ, ba con Mén là người của
đại gia đình xóm Bộng. Vậy mà cái đại
gia đình đó vẫn chưa ai hay rằng tụi con Mén sẽ
bay đi tìm sống tự do ở một chân trời khác.
Bởi vì má con nó luôn luôn giữ kín chuyện này, cũng
như mọi người đang lo xuất cảnh hay toan
tính vượt biên, chẳng một ai dám hé răng. Bây
giờ con Mén lớn rồi, nên nó để cái võng cho ba nó
nằm. Nó săn sóc ba nó từng chút : lấy khăn lông
nhúng nước cho ba nó lau mặt, nấu trà cho ba nó uống,
bới cơm cho ba nó ăn. Mẹ con nó ngồi dưới
đất vây quanh võng để nghe ba nó kể chuyện cải
tạo đầy khổ nhục. Ba nó bây giờ hút thuốc
rê như ống khói. Ba nó thấy bầy nhỏ nhìn mình
châm-chú, nên mỉm cười phân trần như tự bào
chữa : “Hồi đó ba đâu biết hút thuốc. Rồi
trong trại, phần vì lạnh, phần vì buồn, bạn
tù chia nhau điếu thuốc rê. Riết rồi ghiền
luôn, bỏ không được”. Con Mén nghe thương ba nó
vô cùng. Nó muốn nhào lại ôm ba nó để chia sớt ngần
đó tháng năm chồng chất bằng đói lạnh
buồn đau. Nó muốn nhào lại cầm tay ba nó đặt
lên một bên má của nó, rồi an ủi ba nó bằng những
lời lẽ thật là dịu thật là ngọt. Nó muốn…
nó muốn… Nhưng, không hiểu sao nó vẫn ngồi yên
nhìn ba nó mà nghẹn-ngào chảy nước mắt. Có lẽ
nó tự nhận thấy bây giờ nó không còn là con nít nữa. --oOo-- Bữa
đi phi-trường thật là tội nghiệp. Cả
nhà len-lén đi, không dám chào ai hết. Gọi là đi chánh-thức
nhưng giống như là đi trốn, đi chui. Má con Mén
dặn dò mấy đứa nhỏ thật kỹ lưỡng,
rồi kết luận : “Sợ bà con biết rồi ba con
buồn, hiểu chưa ?” Nếu
bà con biết thì có lẽ bà con sẽ buồn thật. Không
phải chỉ buồn vì xa tụi con Mén, mà còn buồn vì số
phận hẩm hiu của mình, bởi vì không phải ai cũng
được may mắn như gia đình con Mén. Điều
mà má nó không nói ra là trong thâm tâm má nó rất ái nái khi phải bỏ
xóm Bộng ra đi. Má nó thấy mình giống như lính
đào ngủ trong khi bạn đồng đội đang
gan lỳ chịu đựng. Ngồi trên xe đi phi
trường mà má con Mén cứ lâu lâu lại thở dài…
Phi-trường đông thật đông, Người đi
không có bao nhiêu mà người tiễn đưa thì thật
là nhiều. Kẻ đi người tiễn nào mắt cũng
mọng đỏ. Họ đã khóc đâu từ hồi còn
ở nhà hay từ hồi còn trên xe, đến đây còn thấy
có người khóc tiếp. Dĩ nhiên buổi tiễn
đưa nào cũng buồn, nhưng tiễn đưa mà
biết rằng vĩnh viễn không gặp lại nhau nữa
thì buổi tiễn đưa đó mới thật là
đau đớn. Nó cũng giống như đi chôn
người thân, cho nên có nhiều người ôm nhau khóc thật
thảm thiết. Người đi cũng như kẻ ở
đều chết điếng trong lòng. Lời nói chỉ
còn là nước mắt. Mấy
anh em con Mén lần lượt ôm ba tụi nó, khóc như
mưa bấc. Con Mén được ba nó ôm sau cùng, ôm thật
lâu… Ba nó siết chặt nó vào lòng mà nghe như có cái gì trạo
trực từ lồng ngực đưa lên cổ. Ba nó nhắm
nghiền mắt lại, nuốt xuống như nuốt
liều thuốc đắng.
Đến khi ba nó hôn nó lần cuối thì nước mắt
ở đâu bỗng trào ra như suối. Trong một khoảnh
khắc, người đàn ông quê mùa cục mịch đó
bỗng nghe thân xác của mình tan ra thành nước, bỗng
thấy tất cả đều nhòe nhoẹt tối
đen mà mình thì đã chết đi, chết hẳn. Thời
gian như ngừng lại rất lâu… Rồi
cũng phải buông rời nhau ra để thực sự
nhìn nhau lần cuối. Những người tiễn đứng
thành hàng dài, còn rán chồm qua hàng rào ngăn cách để
núm níu người đi. Chỉ trong vài giây ngắn ngủi
đó, tất cả đau thương cô đọng lại
thành tiếng nấc, rồi người ta khóc to lên không
còn cần giữ ý tứ gì nữa. Giống như lúc liệng
nắm đất lên mặt quan tài nằm sâu dưới
huyệt. Ở đây, đúng là “người đi” đi
vào một thế giới khác. Ba
con Mén nhìn theo vợ con bước vào bên trong, khoảng cách
không có bao nhiêu nhưng sao thấy xa mút như đầu con
kinh đào ở xóm Cầu Ngang. Con kinh đào mà thuở ấu
thơ ba nó đã từng nô đùa tắm mát bây giờ cũng
xa lắm nhưng còn có ngày ba nó nhìn thấy lại, chớ
vợ con thì… Ba nó ngừng suy tư ở đó để vẫy
tay lần cuối trước khi vợ con bước qua
khuôn cửa kiếng. Cánh cửa đóng lại khô khan
như gương mặt mấy thằng công an đứng
gần quanh đó, dửng dưng như chẳng có chuyện
gì xảy ra ! Trong phòng đợi, con Mén lẩm nhẩm
đánh vần khẫu hiệu được vẽ to trên
tường bằng sơn đỏ: “Không có gì quý hơn
độc lập tự do”. --oOo-- Tôi
quen con Mén ở Abidjan, thủ đô xứ Côte d’Ivoire. Má nó
đưa anh em nó lại để học Pháp văn với
tôi, cùng với những đứa con của mấy gia
đình tỵ nạn khác. Con
Mén bây giờ không còn “mén” nữa. Nó tròn-trịa ra, đôi má
phinh-phính hồng. Tóc bây giờ đã để dài chấm
vai, đuôi tóc quớt quớt. Khi
đã quen thân, con Mén tỉ-tê kể cho tôi nghe từng mẫu
chuyện nhỏ trong cuộc đời của nó, nhớ
đâu kể đó, không thứ tự lớp lang. Nhưng
phần lớn, chính má nó kể lại, tỉ mỉ hơn,
nhứt là đoạn nó còn nhỏ. Những
lúc con Mén kể chuyện, mặt nó tươi ra, rạng rỡ,
mắt nó ngời lên tinh-anh. Và khi nó nói về ba nó, nó không
thiếu một chi tiết. Lâu lâu nó ngừng lại để
chêm vào : “Cũng tại tụi Việt Cộng hết !”
Đến những đoạn bi-thảm của ba nó, có
khi nó ngừng kể, mắt nó đầy căm thù, tiếng
nó bị nghiến lại trong răng. Tôi đoán nó đang
chửi thầm : “Mồ tổ cha nó !” Một
hôm, nó nói với tôi : - Bác Hai nè ! Bác đừng nói với
ai hết nghen. Con muốn nhờ bác dạy con chữ quốc-ngữ
nữa. Hồi đó con mới học hết lớp một
rồi nghỉ học luôn tới giờ nên con còn dốt lắm
!
Rồi nó chớp chớp mắt, giọng nói bỗng trở
nên trìu mến :
- Con muốn học quốc ngữ để con viết
thơ cho ba con…
Câu nói đó đã làm tôi xúc động đến ứa
nước mắt !
Từ bao lâu nay, người tỵ nạn chỉ nhờ
tôi dạy Anh văn hay Pháp văn. Đây là lần đầu
tiên trong đời lưu vong, tôi được người
nhờ dạy quốc-ngữ. Lại là một cô gái nhỏ.
Và cô học chỉ để viết thơ về cho cha cô
ở Việt Nam ! Giản dị như vậy. Vậy mà
sao tôi có cảm tưởng như tôi vừa được
nhắc đến quê hương, nhắc bằng chữ
i, chữ tờ… Và được thấy lại một
nét quê hương qua hình ảnh người con muốn viết
thơ về cho cha vì vẫn không muốn cắt lìa cuống
rún !
Tôi nhìn con Mén mà thấy thương thấy quí nó vô cùng. Nó
không hiểu cái nhìn của tôi nên gật gật đầu,
lập lại :
- Con muốn viết thơ cho ba con. Tôi cầm
hai bàn tay nó bóp nhẹ : - Ờ…
Bác sẽ dạy con… Bác sẽ dạy con… Trên
gương mặt phinh phính của con Mén, nở ra một
nụ cười rạng rỡ. Chắc nó đang nghĩ
đến ba nó, đến cái ngày mà nó có đủ chữ
đủ câu để nắn nót viết cho ba nó những
bức thơ dài… Ở
Bây
giờ, tôi thấy quí vô cùng những chữ la-tinh mang móc
câu, để trở thành chữ ư chữ ơ, đội
nón úp nón ngửa để trở thành chữ â chữ
ă, kéo theo mấy dấu lăn quăn nằm dưới
nằm trên… Bởi vì nhờ có chúng nó mà cha con con Mén vẫn
thấy được gần nhau mặc dầu ở xa
nhau cách nửa địa cầu. Bởi vì nhờ có chúng
nó mà tôi đã khám phá ra con Mén : một đứa gái nhỏ
tuy tỵ nạn bao năm ở xứ người mà trong
lòng vẫn còn giữ nguyên hình ảnh của xóm Bộng, của
Sàigòn, của Việt Tiểu Tử
|