chị tư Ù ·
11.12.2005 Chợ
cá hồi đó nằm trên khoảng đất tráng xi
măng giữa bờ sông và nhà lồng chợ, chung với
hàng rau cải và trái cây. Về sau, thấy việc bơm
nước rửa chợ cá vẫn không làm trôi hết mùi
tanh của nhớt cá thấm vào xi măng, nhà chức trách trong
làng cho xây chợ cá chờm hẳn ra sông, bằng gỗ
theo điệu nhà sàn chống chân xuống nước
nhưng bề mặt rộng như một cầu tàu.
Như vậy, nhứt cử lưỡng tiện, bởi
v́ vừa rửa chợ ngay trên mặt sông, vừa có chỗ
cho ghe thuyền cập vào để lên hàng. Ngoài ra, c̣n thêm một
"tam tiện" nữa là chiều chiều người
ta hay ra đó để câu cá hoặc hóng mát bởi v́ chợ
chỉ nhóm có buổi sáng thôi.
Ở chợ cá, chị Tư Ù là "xếp ṣng"! Không
phải chỉ tại v́ cái sự "to thuyền lớn
bánh" của chị, mà c̣n tại v́ chị thuộc vào gia
đ́nh bán cá bán mắm lâu đời nhứt trong làng. Bắt
đầu là bà ngoại của chị từ thuở
chưa có chợ nhà lồng (hồi đó chợ c̣n nhóm lộ
thiên ở dưới xóm ḷ heo). Kế đó là má của chị.
Thời này, ở nhà không c̣n làm mắm bán mắm, chỉ
bán cá thôi và đă dọn về căn phố trệt nằm
ngang hông chợ. Và bây giờ là đến phiên chị
Tư. "Trong gia đ́nh, con Tư học hành th́ dở
nhưng lại chịu cực giỏi. Lại biết
bươn chải làm ăn. Chỉ có nó mới nối nghiệp
tao được. Cũng như tao đối với bà
ngoại bây hồi đó." ... Má chị Tư thường
nói như vậy, hồi c̣n sanh tiền, hồi lũ con vừa
mới lớn. Về sau, quả đúng như vậy: mấy
đứa kia sau khi dựng vợ gả chồng, xuống
Sài G̣n làm việc cho nhà nước, có đứa làm cho hăng
tư ở đâu tuốt ngoài Trung xa lắc xa lơ. Chị
Tư ở lại "nối nghiệp" sau khi bà già nằm
xuống. Rồi bởi v́ có sự "mẹ truyền con
nối" ba đời như vậy mà không riêng ǵ ở
chợ cá, trong làng ai cũng biết tiếng chị Tư
và bạn hàng cá cũng nể nang một phần.
Hỗn danh "Tư Ù" không phải mới có sau này, mà
đă có từ hồi chị Tư c̣n nhỏ. "Trong nhà
chỉ có ḿnh con Tư là sổ sữa hơn hết" -
má chị thường nhắc chuyện này, v́ bà rất
hănh diện đă làm một việc "không phải ai cũng
làm được". Bà kể: "Hồi sanh nó ra, tao rặn
muốn bứt hơi luôn ! Tưởng đâu tao ngủm rồi
chớ. May nhờ bà mụ cũng giỏi, bả rặn
phụ tiếp sức mấy lần, con nhỏ mới chịu
lọt ra. Ư... nó ĺ từ c̣n trong bụng chớ phải mới
đây đâu bây ơi!". Bà hay ngừng ở đó một
chút, xỉa cục thuốc qua lại mấy lần, làm
như để nhớ lại cái đau thuở đó và
cái nhẹ sau khi đă sổ ḷng đứa con... Rồi lúc
nào bà cũng tiếp: "Bà mụ mà c̣n phải công nhận
là cả làng này chưa ai sanh đứa nhỏ nào bự bằng
nó hết ! Ai tới thăm khi bồng nó lên cũng nói là nó
nặng như con Tây ! Tía bây đi ruộng về thấy cũng
phải hết hồn!". Rồi cũng v́ cái sự nặng
như con Tây mà mấy bà mấy cô xóm Chợ hay tới lui ẵm
bồng nựng nịu "bé Tư". Bé Tư mau ăn
chóng lớn, lúc nào cũng "ú na ú nần", hay cười
dễ ngủ nên trong xóm ai cũng thương. Măi đến
khi vào trường tiểu học, trẻ con trong trường
mới đặt cho danh hiệu "Tư Ù". Từ
đó, thành tên luôn.
Hồi đó trong lớp, hai đứa học dở
"nổi danh" là con Tư Ù và thằng Út Cón. Thằng
này người Tàu, tên Lư Cón, con trai út của chú Phấn thợ
bạc. Vợ chồng chú Phấn sanh một bầy con gái
rồi ngưng ngang. Tám năm sau thiếm Phấn bỗng
lại có bầu. Lần này, hai vợ chồng đưa
nhau về Chợ Lớn đi mấy chùa chiền cầu
nguyện cúng vái dữ lắm. Sau đó, sanh Út Cón. Cho nên, cả
nhà chú Phấn cưng nó như vàng. Nó muốn ǵ được
nấy. Đến nỗi, khi đến tuổi đi học,
nó không chịu đi, là cả nhà cũng làm thinh. Cho tới
lúc thấy nó "lớn đại" rồi mới t́m
cách dụ dỗ, nói khích để nó cắp cặp vào lớp.
V́ vậy khi nó đi học với Tư Ù th́ nó đă lớn
hơn tới bốn năm tuổi !
Trái với Tư Ù, Út Cón gầy nhom trắng nhách. Tánh t́nh
th́ hay hờn hay giận trong lúc Tư Ù lại xông xáo
"du côn" như con trai. Vậy mà hai đứa lại
thích nhau, lúc nào cũng đi chung chơi chung, và gọi nhau
bằng "bồ".
Tiệm vàng của chú Phấn nằm ở dăy phố trệt
phía bên kia nhà lồng chợ, thành ra đối diện với
nhà má Tư Ù. Và v́ hai nhà nằm trịch về ph́a bờ sông
ngang sân xi măng nên từ nhà này có thể nh́n thẳng qua
nhà bên kia mà nói chuyện cũng được. Chỉ cần
nói lớn tiếng một chút là nghe rơ. Sáng nào, Tư Ù cũng
lon ton chạy qua tiệm vàng để cùng đi học với
Út Cón chớ không đi chung với mấy đứa trong
nhà. Lâu lâu, con Tư bị kẹt ǵ đó th́ thằng Cón ra
trước cửa tiệm réo: "Ù ơi! Ớ... Ù ! Bồ
làm khỉ ǵ bển mà chưa chịu qua ?". Có hôm, cả
hai đứa cùng trễ, nghe tiếng trống trường
đánh thúc tới mới hè nhau chạy mà cười hắc
hắc, giống như... chạy đua vào lớp.
Những ngày nghỉ, tụi nó hay rũ nhau lên chùa
"ăn cắp nhăn". Thật ra tụi nó c̣n quá nhỏ
để trèo lên mấy cây nhăn trong vườn sau của
chùa, nên đến đó chỉ để lượm nhăn
dơi ăn làm rớt rải rác dưới đất.
Nhưng vẫn nói là "đi ăn cắp" cho nó oai!
Út Cón hay đem hột nhăn về nhà lấy dao cắt khoanh,
móc bỏ ruột, c̣n lại cái vỏ đen huyền bóng
lưởng làm nhẫn đeo vào ngón tay của "bồ"
nó. Nó đă phải lựa những hột nhăn thật to
để chiếc "nhẫn" đủ rộng cho vừa
ngón tay...
... Lật bật rồi hai đứa cũng học hết
lớp nh́. Đến đây, Út Cón sang qua học trường
Tàu vừa mới mở ở xóm chùa Cao Đài trên lộ
cái. C̣n lại một ḿnh, Tư Ù ráng "kéo" hết
năm lớp nhứt rồi nghỉ học luôn, ở nhà
giúp việc nhà và tập tành bán cá với mẹ. Lúc này,
"con Tư" bắt đầu trổ mă. Da dẻ mơn
mởn, má hồng hồng, mắt trong vắt, tóc đen
mướt thả dài đến ngang lưng, và giọng
nói thật là lảnh lót. Thân h́nh có thay đổi, có "trở
thành con gái", nhưng vẫn... tṛn trịa nặng cân.
Út Cón cũng nhổ gị, cao lêu khêu, nói tiếng trống tiếng
mái. Tuy hai đứa không c̣n học chung, nhưng vẫn qua
lại gặp nhau thường và vẫn gọi nhau bằng
"bồ". Tiếng "bồ" từ thuở bé
bây giờ không c̣n nét vô tư nữa, nhứt là tiếng
"bồ" của Tư Ù gọi Út Cón. Nó có cái ǵ... khác
khác. Một cái ǵ nhẹ nhẹ. Một cái ǵ mà chỉ có
con gái gọi người con trai ḿnh thích mới gọi
được như vậy thôi !
Bây giờ Út Cón đi học bằng xe đạp. Sáng nào,
nó cũng đảo một ṿng xuống bờ sông để
đạp ngược trở lên ở dăy phố bên kia, bởi
v́ sân xi măng đă đầy bạn hàng. Và sáng nào vào giờ
đó con Tư cũng quét nhà vừa ra đến cửa
để chào Út Cón: "Đi học hả bồ ?".
Thằng con trai vừa "Ừa" vừa nhấn mạnh
lên bàn đạp làm tiếng "Ừa" như bị
kéo dài ra, giống như cái nh́n của con Tư đang kéo
dài theo sau lưng bồ nó.
Lâu lâu, tụi nó rủ nhau đào trùng đi câu ở bến
gỗ thầy Cai, và luôn luôn đi chung với mấy đứa
nữa. Chỉ có hẹn nhau lên chùa là tụi nó đi riêng.
Làm như khu vườn sau chùa là một thế giới
khác, một thế giới mà tụi nó đă "xí" từ
hồi c̣n học lớp chót. Ở đó có mấy gốc
nhăn mấy gốc sung gốc mít và vô số ổi, vây quanh
bởi một hàng rào tre tươi. Trẻ con trong làng
đều biết khu vườn đó nhưng chúng không
vào được v́ phải bước hẳn vào ngôi tam bảo
mới có ngơ để đi qua đó, mà ông thầy cả
th́ khó tánh không cho trẻ con vào chùa sợ mất nét tôn
nghiêm. Ông thầy này là bà con bạn d́ với má con Tư, nhờ
vậy mà Tư Ù Út Cón được ra vào vườn thông
thả. Dĩ nhiên, chúng nó chẳng bao giờ dám lớn tiếng
làm ồn. Ngoài ra, khi gặp dịp, hai đứa cũng
biết phụ thầy hay mấy chú tiểu làm những
chuyện lặt vặt như quét dọn bàn Phật,
chưng bông, nấu nước. Thành ra trong chùa coi tụi
nó như... người nhà ! Lâu rồi thành quen, chẳng ai
để ư rằng "hai đứa nhỏ" đă bắt
đầu lớn...
Những lúc lên chùa sau này không c̣n ư nghĩa ngây thơ
"đi ăn cắp nhăn" như hồi c̣n "lớp
năm lớp tư". Lên chùa bây giờ giống như
"đi về nhà của tụi nó" hay "đi về
cái ổ của tụi nó". Cái khu vườn sau mà tụi
nó thuộc từng gốc cây bờ cỏ, thuộc từng
lối đi quanh quẹo để tránh ḥn non bộ, tránh
mấy chậu kiểng, tránh mấy cái đôn bằng sành...
Ở đó, chia nhau mấy trái ổi chua, mấy trái dái mít
chát... để chấm muối ớt mang theo từ nhà, vừa
ăn vừa hít hà v́ cay chảy nước mắt, vậy
mà sao thấy ngon, thấy vui. Chẳng nói chuyện ǵ nhiều,
vậy mà sao thấy đầy thấy đủ. Ở
đó, chỉ có hai đứa... ...
Mấy năm sau, Út Cón nghỉ học, ở nhà làm thợ
bạc. Mấy năm sau, Tư Ù đi lên đi xuống
Sài G̣n Chợ Lớn bổ hàng về phân phối lại bạn
hàng trong chợ, để bà già bán cá một ḿnh. Mấy
đứa khác trong gia đ́nh đă xuống ở hẳn
nhà người d́ ở Sài G̣n để đi học. Út Cón
bây giờ bảnh trai ra, người dong dỏng cao, mặt
mũi khôi ngô trắng trẻo. Tư Ù th́ thân thể đẫy
đà, chỉ đẹp gái ở giọng nói nước
da và mái tóc! Vẫn hay cười, dễ ngủ và vẫn
lanh lẹ "tay bằng miệng, miệng bằng
tay". Hai người vẫn qua lại với nhau như
thuở nhỏ. Vẫn gọi nhau bằng "bồ",
tiếng "bồ" bây giờ thật đậm
đà t́nh bạn mà cả hai chỉ dành riêng cho nhau. Lâu lâu,
thấy quần áo ǵ lạ lạ mới mẻ ở Sài
G̣n Chợ Lớn, Tư Ù mua về tặng Út Cón "bận
chơi để lấy le với bạn bè". Để
"trả" lại, Út Cón âm thầm vẽ kiểu chạm
trổ một chiếc nhẫn bạc. Mấy hôm sau gọi
Tư Ù qua tiệm nói: "Bồ cho tôi nhiều thứ quá.
Bữa nay, tới phiên tôi cho bồ cái này". Rồi cầm
bàn tay Tư Ù lên xỏ chiếc nhẫn vào ngón áp út. Xong,
nghiêng bàn tay qua lại để nh́n: "Tôi nhắm chừng
vậy mà cũng vừa ghê. Hồi nhỏ, tôi hay làm ṿng hột
nhăn cho bồ, bồ c̣n nhớ không?". Tư Ù xúc động
đến không nói được một lời. Út Cón vẫn
cầm bàn tay nghiêng qua nghiêng lại để nh́n, theo thói
quen thợ bạc: "Bây giờ có muốn làm ṿng hột
nhăn cũng không kiếm đâu ra hột to để cho vừa
với bàn tay tổ nái này !". Tư Ù rút nhanh tay về
đánh lên vai Út Cón cái bốp, nói: "Quỉ". Rồi cả
hai cười vang tự nhiên, làm như thuở ấu thời
hăy c̣n nguyên vẹn đó. Và có lẽ trong thâm tâm mỗi
người đều cũng muốn như vậy. Để
đừng có ǵ thay đổi. ...
Vậy rồi Út Cón đi cưới con Doành, con gái út của
ông bang Ky. Đám hỏi và đám cưới làm cùng một
lúc theo lời yêu cầu của đàng gái v́ ông bang Ky phải
về Tàu gấp sau đó. Hay tin đám cưới, Tư Ù
bỗng chết điếng trong ḷng, đang ngồi trên bộ
ván gơ mà tưởng chừng như ch́m sâu dưới
nước. Nằm dài xuống bộ ván, Tư Ù lấy
khăn lông úp lên mặt để nước mắt thú nhận
t́nh yêu giấu kín từ bao nhiêu năm... Thời
gian sau, Tư Ù "lấy" tài xế Cước lái xe
Thiên Thành chạy lên chạy xuống Sài G̣n... Chuyện này cả
làng đều hay. Bà già chửi "tắt bếp".
Tư Ù đổ ĺ chịu trận, và hay vừa cười
vừa giải thích: "Đi bổ hàng riết rồi
dính luôn, gỡ không ra ! Chắc tại cái số...". Rồi
tài xế Cước dọn về ở chung trong nhà
như hai vợ chồng. Bà già mới đầu buồn lắm,
nhưng lần hồi quen đi, nên cũng chẳng có lời
qua tiếng lại. Bên tiệm vàng Út Cón cũng buồn lắm,
thương cho người bạn gái chẳng gặp duyên
may, làm cho hàng xóm dị nghị mà ḿnh th́ không biết giúp
cách nào hết. Có hôm Út Cón ngừng tay, nh́n ngang tủ kiếng
sang nhà bên kia, thấy thấp thoáng bóng Tư Ù mà có cảm
giác như h́nh ảnh đó mỗi ngày một xa lần mà
ḿnh th́ vẫn ngồi đây bất động, chẳng một
với tay, chẳng một vẫy tay... Chẳng bằng hồi
đó, cái hồi mà c̣n đi chơi chung với nhau, hai
đứa cùng ngồi trên nhánh ổi, chỉ một cái
nghiêng người của Tư Ù mà ḿnh đă đưa tay
chụp lấy nó v́ sợ nó té làm nó cười lên hăng
hắc. Chẳng bằng hồi đó... Chẳng bằng hồi
đó... Út Cón thở dài quay về với công việc mà nghe
ḷng se lại. Chụp hộp quẹt máy đốt đầu
cây đèn kḥ, chân đạp cái bơm gió, Út Cón điều
chỉnh ngọn lửa đèn kḥ mà trong đầu hiện
về biết bao nhiêu kỷ niệm. Để rồi tiếp
tục so sánh "cái hồi đó" với "cái bây giờ".
So sánh để vừa tiếc nuối vừa ân hận. Bỗng
Út Cón thốt lên nho nhỏ, giọng như tự trách ḿnh:
"Vậy mà gọi nhau bằng bồ cái nỗi ǵ
?...". Ư nghĩ đó làm Út Cón muốn chảy nước
mắt. Vội vă cầm đèn kḥ đưa ngọn lửa
tạt qua tạt lại trên cục vàng nhỏ như hột
bắp nằm gọn trong ḷng khuôn. Để đừng
nghĩ ǵ nữa. Vậy mà vẫn nghĩ rằng ḿnh
đang muốn đốt cho chảy ra để làm tinh
khiết lại một cái ǵ cũng quí như cục vàng nằm
ngay trước mặt...
Ăn ở với tài xế Cước không bao lâu Tư Ù
mang bầu rồi sanh con trai. Bà già cưng như trứng mỏng.
Vậy mà tài xế Cước kiếm chuyện gây gổ
mấy lần rồi "xách gói ra đi". Ra đi
khơi khơi dễ dàng làm như chuyện "đầu
ấp tay gối, đứa con ḥn máu" chẳng có giá trị
ǵ hơn chuyện quá giang xe đ̣ của người hành
khách ! Cũng chẳng thấy Tư Ù buồn. Có ai hỏi
th́ trả lời: "Thằng chả nói nhà tôi tanh cá quá,
thằng chả chịu không nổi". Nói rồi Tư Ù
cười lên ha hả. Có ai trách th́ tự an ủi: "Ôi
!... Thằng chả lái xe đ̣ quen rồi. Tấp vô bến
này một chút rồi đi, rồi tấp vô bến khác.
Hơi đâu mà trách? Chớ như tôi đây ú na ú nần xấu
xa xấu xí có thằng đàn ông nào thèm rớ. Vậy mà thằng
chả chiếu cố hết mấy năm, coi thấy bạc
nghĩa vậy chớ vẫn c̣n có t́nh. C̣n phiền trách
nhau chi ?". Từ ngày tài xế Cước bỏ đi,
vợ chồng Út Cón " vẫn chưa có con " hay qua lại
nhà Tư Ù ẵm bồng nựng nịu thằng nhỏ và
lâu lâu "mượn" nó về tiệm vàng chơi cả
buổi, gọi là để "lấy hên". Thật
ra, đó chỉ là một cái cớ để Út Cón nối
lại sợi dây t́nh cảm bị gián đoạn từ
ngày có mặt tài xế Cước và để tiếng
"bồ" vẫn là tiếng nói từ trong ḷng của
hai người. Vợ Út Cón cũng mến Tư Ù ở
tánh bộc trực nên thường tới lui "chị
chị em em" như đă quen thân nhau từ trước.
Tư Ù chẳng những không thấy ganh ghét vợ Út Cón mà
c̣n thấy "con nhỏ thiệt dễ thương, nết
na đằm thắm, lo cho chồng từng tí từng
ly...". Đối với Tư Ù, mọi sự đều
dễ dàng: "Không thành duyên nợ th́ thôi, t́nh thương
ḿnh để vào ḷng chớ làm khó khăn rắc rối
nhau chi cho chúng ghét". C̣n về "chữ t́nh", quan niệm
của Tư Ù cũng rất là đôn hậu rơ rệt:
"Hể ḿnh thương ai th́ ḿnh muốn người
đó sung sướng hạnh phúc. Người đó vui,
ḿnh vui. Người đó buồn, ḿnh buồn. Chớ c̣n
nói thương người ta mà cứ đeo theo làm khổ
người ta, th́ đâu phải gọi là thương
!". Có lẽ nhờ nghĩ như vậy mà tiếng
"bồ" của Tư Ù gọi Út Cón lúc nào cũng thấy
trong veo mát rượi như giọt sương trên tàu lá
buổi sáng...
Mặc dù tâm sự đă "gói ghém" kỹ để
trong ḷng, lâu lâu Tư Ù vẫn thấy thèm được
nói lên "tiếng nói của con tim". Đó là những
buổi trưa rỗi rảnh, nằm một ḿnh trên vơng
đong đưa, ngẵm nghĩ viễn vong để cuối
cùng lại trở về hoàn cảnh của hai người.
Không kềm được trào ḷng, Tư Ù ngân nga một
câu vọng cổ: "Anh Hai ôi... Cái mối t́nh của em
đối với anh... nó tợ như trời cao biển
rộng ...ư. ..sông... à...dài...".
Xuống "ḥ" thật ngọt, và nghe như nỗi niềm
trắc ẩn cũng theo chữ "dài" mà tuôn ra nhè nhẹ.
Mấy tiếng "Anh Hai ôi..." được
"vô" một cách t́nh tứ. Sợ thiên hạ biết,
chớ nếu dám "vô" bằng "Anh Út ôi..." chắc
phải mùi hơn nhiều... Và chỉ có như vậy thôi,
và chỉ cần có như vậy thôi, Tư Ù cũng đă
thấy nhẹ, thấy thỏa măn, thấy như đă
nói hết những ǵ ḿnh muốn nói! * * * Khi chị Tư "nối
nghiệp"bà già, chợ cá hăy c̣n nhóm mỗi sáng trên sân xi
măng. Hồi đó thằng con trai đă lớn, đang
đi quân dịch, và vợ chồng chú Út cũng đă có
hai cô con gái. Người trong làng kêu Tư Ù bằng "chị
Tư", nhưng lại gọi Út Cón bằng "chú
Út". Có lẽ tại cái gốc Tàu. Bởi v́ họ
đă có thói quen gọi người Tàu bằng "chú"
"chú chệt" và vẫn gọi tiếp tục như
vậy cho dù "chú chệt" đó lần hồi đă
già bảy tám mươi tuổi. (Thành ra trong tiệm vàng
đă có "chú Phấn", bây giờ tấn lên có "chú
Út Cón". Hai cha con đều được gọi bằng
"chú", ngang nhau !) Mỗi sáng chị Tư dọn
hàng ra chợ, ngay trước nhà, nên cũng tiện và
nhanh. Hàng cá của chị gồm có hai thau nhôm thật to
đầy cá, nước trong veo, mộït tấm thớt gỗ
dầy, hơi trũng xuống ở phần giữa v́
đă được sử dụng lâu năm, một con
dao yếm để đánh vảy mổ bụng cá, một
con dao phay để chặt khúc cá, một cái thau nhôm nhỏ
để bắt cá cho khách hàng coi và một cái cân xách. Đặc
biệt trong chợ cá, chỉ có chị Tư là không có cái
chài vồ. Dụng cụ này bằng gỗ, thường
được dùng để đập lên sóng dao phay khi muốn
chặt con cá to ra từng khứa và nhứt là khi cần bổ
hai cái đầu cá để đừng bị dập và
để mỗi miếng "coi cho nó ngon". Khách hàng
không ưa những khúc cá "bầy nhầy", cho nên
hàng cá nào cũng phải có dao bén ngót, và khi "rả"
con cá cở bằng bắp chân trở lên, phải biết
dùng dao yếm để khứa và dao phay với cái chài vồ
để "xả". Vậy mà chị Tư không cần
tới cây chài vồ. Bởi v́ chị mạnh tay lắm và
chị "nhắm đâu là chặt đúng ngay đó, không
xê xích một ly". Khách hàng ai cũng phục chị
Tư ở chỗ đó. Họ nói: "Con Tư nó múa dao
như Sơn Đông. Ḿnh chỉ ở đâu là nó phụp ở
đó, ngay bon ngọt xớt... Chớ không phải như mấy
con mẹ kia, cầm chài vồ đập bom bớp nghe mà
phát nhức đầu". Dọn hàng xong, chị ngồi
lên cái hộp gỗ cao bằng hai viên gạch có cái hộc
như hộc tủ. Chị kéo hộc ra để tiền
lẻ vào đó, rồi bắt đầu chào hỏi bạn
hàng cá và rau cải. Trong làng, và nhứt là trong chợ, phần
đông đều quen biết nhau hết, nên câu chuyện
trao qua trao lại dễ dăng thoải mái. Đó là giờ
"thông tin" của các bạn hàng trong khi người
đi chợ c̣n rải rác lưa thưa. "A... để
nói này nghe, đừng nói ai hết nghen ! Con gái của d́
Năm Đôi có bầu với thầy giáo Thái. Họ giấu
dữ lắm đó"... "Chèn ơi! Tội nghiệp
con nhỏ hôn !"... "Thầy bà ǵ mà ác nhơn. Vợ
con cả đống cả lèng rồi mà c̣n dê con nhỏ
làm chi cho nó khổ"... "Nè ! Nghe nói ông Xả Bảy mới
rinh về một con vợ bé. Không biết phải hôn
?"... "Đâu nà ! Cháu gái của ổng đó. Đừng
nói bậy ổng cào nhà bây giờ"... "Ờ... Con mẹ
Sáu bánh lọt sao hổm rày đâu mất hổng thấy
há ?"... vv... Trong lúc bạn hàng vải, hay bạn hàng xén,
đều có nhà hay cửa tiệm nằm vây quanh chợ
nhà lồng "nghĩa là qui tụ lại một chỗ"
th́ những người bán cá lại có nhà ở rải rác
trong mấy xóm xa chợ như xóm Giếng, xóm Chùa, xóm Ḷ Gạch,
xóm Nhà Máy... Thành ra bạn hàng cá có "tai mắt" ở
khắp nơi. Cho nên họ là giới biết nhiều tin
tức trong làng nhứt. Và họ thông tin ăn bứt
"Pḥng Thông Tin"! Khi chợ đă bắt
đầu đông, bắt đầu ồn ào, th́ mạnh
ai nấy rao hàng mời khách. Chị Tư cầm cái cán cân
nhắc lên để xuống đều đặn làm cho
ba sợi xích sắt rơi nhịp nhàng vào cái dĩa cân, kêu
rèn rẹt rèn rẹt, miệng mời tía lia: "Cá cô Hai...
Cá d́ Tám". Chị nhớ từng sở thích của khách
hàng, như "D́ Sáu Lộc ưa cá trê vàng, c̣n cô Năm Ngự
lại không ăn được cá không có vảy. Chị
Hai Bia th́ hay ăn đầu cá lóc, mà coi chừng, phải
có đủ đùm ruột và gan mật c̣n nguyên chỉ mới
chịu...". Lâu lâu, chị Tư thọc tay vào thau vuốt
ve mấy con cá giống như vuốt ve con mèo con chó ! Vậy
mà chẳng có con cá nào "chém" bàn tay của chỉ hết!
Và khi mà chị Tư muốn bắt con nào là chị luồng
thật nhanh ngón tay cái và ngón tay trỏ vào hai mang cá, nhấc
bổng ra khỏi nước. Mấy con cá lốc bằng
bắp đùi, chị cũng chỉ bắt có một tay. Mạnh
như vậy nên bạn hàng cá ai cũng nể mặt, dù
xưa nay họ nổi tiếng là giới thô lỗ hỗn
ẩu. Một hôm, chợ vừa
nhóm, chị Tư mặt hầm hầm, cầm con dao phay
chém xuống thớt nghe cái cốp rồi chỉ mũi dao
về phía một bạn hàng cá ngồi cách xa mấy thước
phía đối diện, giọng lanh lảnh: Lia ! Tao nghe nói mầy
đang rêu rao vụ ǵ đó phải không? Tiếng "không"
được nhịp bằng tiếng dao chém xuống thớt.
Cô gái tên Lia vừa sang nước cá vừa trả lời:
Chuyện ǵ đâu ai biết
! Chị Tư vẫn nhịp
dao xuống thớt: Vậy chớ đứa
nào đi nói cùng đồng là thằng cha Út Cón gian lận,
bán vàng giả mà la vàng thiệt ? Hả ? Hả ? Bỗng con Lia đứng
sọc lên, tay chống nạnh, mặt gân gân: Ờ ! Tôi nói đó ! Rồi
có sao không ? Chị Tư cũng đứng
lên, tay vẫn cầm dao phay điểm điểm: Có, chớ sao không ! Tao hỏi
mầy vậy chớ Út Cón có lường gạt mầy
không ? Mầy nói cho bà con nghe coi ! Con Lia "khựng" một
chút rồi cũng gân gân: Th́ thằng chả làm
đồ giả tôi nói làm đồ giả. Mắc mớ
ǵ chị mà chị xía vô ? Chị Tư nổi nóng,
la lớn: Mắc mớ chớ sao
không mắc mớ ! Út Cón là bạn của tao, tao không muốn
ai nói xấu thằng chả hết. Nếu mầy có bằng
cớ th́ trưng ra cho bà con coi, rồi đem lên hội
đồng xă mà thưa thằng chả. Chớ c̣n không có
ǵ hết mà cứ đi rêu rao nói xấu người ta là tự
mày muốn sanh chuyện chớ ai vô đây ? Thấy quá căng, mấy
bà bán cá vội vă xúm lại can gián, mỗi người vài
câu, ồn ào hỗn tạp. Trước khi ngồi xuống,
chị Tư c̣n "bồi" thêm một câu, gọi là
để "dằn mặt": Nè ! Tao nói cho mầy biết.
Mầy mà c̣n kiếm chuyện nữa th́ con dao này nó không tha
mầy đâu ! Cái thứ ăn ở bất nhơn thất
đức không chém cũng uổng... Con Lia vừa sợ, vừa
đuối lư, làm thinh ngồi xuống nhưng trong ḷng
"thề sẽ có ngày nó rửa nhục". Nghe lộn
xộn, chú Út Cón từ sau nhà bước ra trước cửa
tiệm để nh́n. Lúc đó, cuộc căi vă cũng vừa
chấm dứt. Thiên hạ đi chợ đă bắt đầu
đông. Thành ra chú không biết rằng "bồ" của
chú vừa mới binh chú. * * * Về sau chợ cá nhóm trên
sàn gỗ xây chờm ra sông. Chị Tư mỗi lần dọn
hàng phải đi xa hơn một chút. Chị vẫn
"to thuyền lớn bánh", vẫn hay cười, dễ
ngủ, mặc dù thằng con duy nhứt của chị
đă chết trận ở ngoài Kontum. Chị nói: "Sống
chết tại số. Có khóc mấy, nó cũng không sống
lại được !". Trên bàn thờ, cạnh h́nh ông
bà già, chị để h́nh thằng con mặc quân phục,
ngực đeo huy chương. Chị thích cái ảnh đó
lắm bởi v́ chị thấy nó giống kép Hùng Cường
! Trưa trưa, chị vẫn
nằm đong đưa trên vơng. Chị thích nằm vơng bởi
v́ nó mát lưng. Cái vơng của chị được thắt
bằng sợi cây gai đập tơi ra rồi tết lại
mịn màng, thân tau vừa to vừa dẹp lại không có
gút thành ra nằm êm và không cấn làm ngứa lưng như
vơng lưới. Chị cũng chê vơng nhà binh, tuy nằm êm
nhưng khi trở ḿnh nó lại kêu sột soạt ! Và lâu lâu, chị vẫn
ngân nga câu vọng cổ của chị để thấy
cuộc đời này hăy c̣n "cái ǵ để nói"... * * * Biến cố tháng tư
1975... Cả làng treo cờ đỏ.
Khắp nơi căng biểu ngữ đỏ. Tất cả
bảng hiệu đều được sơn lại bằng
màu đỏ. Coi hực hỡ như ngày xưa làng xă làm
đám cúng ở miễu ông Tà ! Loa được bắt
trên cành cây đầu cột, ngă tư ngă ba, phát thanh nghe rồ
rồ như có tiếng máy xe đ̣ Thiên Thành nằm trong
đó ! Không có phát thanh cải lương nên nghe riết cũng
nhàm. Rồi mạnh loa loa nói, mạnh người người
nói. Bây giờ người ta
không c̣n thời giờ rảnh nữa. Hội họp, học
tập, hoạt động đoàn thể liên miên, chưa
kể đi lao động đều đặn... Chợ cá vẫn họp
buổi sáng. Giờ "thông tin" cố hữu của bạn
hàng cá cũng thấy được tiếp tục
nhưng có thâu ngắn lại và nhứt là bây giờ thấy
nói nhỏ chuyền cho nhau nghe, chớ không bô bô như hồi
trước. Cho nên người ta biết là con Lia bây giờ
theo tụi cách mạng dữ lắm. Nó nghỉ bán cá để
tổ chức "phụ nữ này phụ nữ nọ ǵ
đó" và hay tới lui với "thằng cha Bắc kỳ
công an ở nhà thầy giáo Thái" (nhà này cách mạng tịch
thâu v́ thầy giáo và gia đ́nh đă bỏ chạy mấy
ngày cuối tháng tư bảy mươi lăm). Và họ
nói: "Con nhỏ lúc này lên chưn lắm, bà con! Thấy có
đội nón cối nữa!". Một hôm vào xế chiều,
tên công an dựng xe đạp trước nhà chị
Tư, nh́n quanh rồi bước vào nhà. Trong nhà lu khạp
chứa cá đứng dài dài từ nửa nhà trên chạy tuốt
ra phía sau. Nhà không có vách ngăn nên nh́n thấy trống bốc
xuống bếp. Chị Tư đang lúi húi nhúm lửa ở
đó, thấy khách vội chạy lên. Chị khoác vội
cái áo bà ba, cầm chổi lông gà quét nhanh mặt ván gơ, rồi
mời: Mời anh ngồi. Có chuyện
ǵ không ? Tên công an ghé đít bên mép
ván, nh́n quanh: Chị ở có một
ḿnh à ? Chị Tư cũng nh́n
quanh: Th́ anh thấy đó. C̣n ai
nữa đâu ? Rồi như sực nhớ
ra, chị tiếp: À ! C̣n... ông Táo. Nhưng ổng
không nằm trong hộ khẩu, ổng nằm trong bếp
! Rồi chị cười
tự nhiên thích thú với h́nh ảnh hài hước đó.
Tên công an làm thinh. Dưới bếp, lửa nhúm khi năy không
"bắt", làm khói lên um tùm. Chị Tư "xin lỗi"
rồi chạy xuống bếp vùi nhanh mấy cây củi xuống
tro. Xong, trở lên, vừa đi vừa nói: Lúc sau này dầu hôi bị
hạn chế, mỗi hộ chỉ mua được có một
xị để dành thắp đèn thành ra không dùng ḷ dầu
hôi. Phải chụm bằng củi, khói thôi là khói !". Tên công an cũng nói đẩy
đưa: Đấy là buổi
đầu thôi chị ạ ! Tại v́ khâu phân phối vật
tư chưa hoàn tất mạng lưới đấy chứ.
Rồi chị xem. Vài hôm nữa xăng dầu sẽ
được đưa về đây cả khối ! Chị Tư vừa
cười vừa nói: Ǵ th́ tôi không biết. Chớ
hôm rồi bà Tám Liệt Sĩ... xin lỗi anh, trong làng bây giờ
kêu bà Tám Tiếu là bà Tám Liệt Sĩ, chớ không phải
tôi đặt ra như vậy đâu. Tên công an gật gật
đầu: Tôi biết. Gia đ́nh bà
má đó theo cách mạng từ thời bốn mươi
nhăm. Sau này đều hy sinh cả. Giải phóng rồi
ít lâu sau chính tôi đă đưa bà má lên tỉnh để lảnh
bằng liệt sĩ và huân chương... Chị Tư gật đầu
tiếp: Phải rồi. Đúng là
bà đó. Hôm rồi, sau khi mua phần dầu hôi của bả,
bả đưa xị dầu hôi lên cao, vừa đi dọc
theo cái đuôi đồng bào đang đợi tới phiên
ḿnh, vừa nói... Chị Tư đưa
bàn tay trái lên trên không, ngón cái và ngón trỏ ra bộ kẹp cổ
chai xị tưởng tượng, cất giọng the thé
nhái bà Tám Liệt Sĩ: Nè... Đồng bào coi
đây nè ! Cái này là dầu hôi nghe không. Dầu hôi của Nhà
Nước ta bán cho nhân dân. Quí lắm đó ! Không phải
để thắp đèn. Mà để nhỏ vô con mắt
cho nó sáng ra, nghe chưa ? Nói xong, chị Tư
cười thích thú. Tên công an chỉ nhếch mép. Không biết
anh ta ráng kềm cái cười đang muốn bật ra hay
anh ta đang cố tạo một nét cười để
chứng tỏ rằng ḿnh cũng biết thưởng thức
khía cạnh trào phúng ư nhị của câu chuyện ? Anh ta
bước lại bàn thờ, nh́n mấy tấm ảnh, hất
hàm hỏi: Ai thế ? Chị Tư trở
ngược cây chổi lông gà chỉ từng tấm ảnh:
Đây là ông già tôi, hồi
ổng c̣n trẻ. Chớ ổng chết hồi ổng
trên sáu mươi lận. Đây là bà già, chụp h́nh x̣e
đủ mười ngón tay ! Chị ngừng ở
đó để cười rồi mới tiếp: C̣n đây là thằng con
tôi, liệt sĩ ở Kontum ! Tên công an căi: Chị dùng từ sai. Lính
ngụy không thể nào là liệt sĩ cả. Bị giết
th́ cứ nói là bị giết. Phải cho rơ ràng ở điểm
đó. Chị Tư ngạc
nhiên: Coi ! Đi dánh giặc rồi
chết ngoài mặt trận, mấy anh không gọi là liệt
sĩ th́ gọi là khỉ ǵ ? Anh ta giải thích: Chị không hiểu. Giữa
ta với ngụy khác nhau chứ. Ta, v́ nhân dân v́ Tổ quốc
mà hy sinh, thế mới gọi là liệt sĩ. C̣n ngụy
là lính đánh thuê cho đế quốc Mỹ... Chị Tư đưa một
tay lên chận lại: À ! À ! Đến đây
tôi xin lỗi anh. Chính anh mới không hiểu ǵ hết. Thằng
con tôi chưa hề đánh thuê chém mướn. Nó đi quân
dịch th́ giống như ngoài đó mấy anh gọi là
đi nghĩa vụ ǵ ǵ đó. Nó cũng v́ đồng bào
của nó, v́ xứ sở của nó mà hy sinh, chớ nó có
đánh giặc để giữ ǵn đất đai xứ
Mỹ bao giờ ? Trong lúc tên công an chưa kịp
"mở miệng" th́ chị Tư đă nói tiếp,
tay cầm cây chổi lông gà trở ngược quơ qua
quơ lại trên không, để "vẽ" cho câu nói: Ngoài đó đánh vô th́
trong này phải đánh ra chớ bộ ngu dại ǵ mà đứng
làm thinh đưa đầu cho thiên hạ đập ? Phải
không? Như vậy gọi là đánh thuê chém mướn à ? Thấy t́nh h́nh sắp
đi vào ngơ bí và "con mụ hàng tôm hàng cá" này cũng
không phải tay vừa, tên công an "đâm" đại
một câu: Chắc là con chị phải
ác ôn lắm nên mới có đến hai huân chương. Chị Tư cười
ha hả: Nếu nói như anh vậy
th́ mấy đồng chí cao cấp của anh phải ác ôn
gấp mấy chục lần thằng con tôi. Bởi v́
người nào người nấy chụp h́nh thấy
đeo một ngực mề đai ! Rồi sực nhớ ra,
chị Tư hỏi: À ! Chút xíu nữa quên mất.
Anh muốn gặp tôi có chuyện ǵ không ? Tên công an như nắm
được cái phao, vội vă đổi giọng ra chiều
thân mật: Chuyện này xin chị giữ
kín cho. Người ta nói với tôi rằng Út Cón c̣n giấu
vàng, không kê khai hết trong kỳ kiểm kê vừa rồi.
Tôi cũng nghi như vậy bởi v́ thấy anh ta... thế
nào ấy. Chị Tư nghiêm nghị:
Chuyện này... Anh là chánh
quyền, anh phải đi hỏi ảnh chớ sao lại
hỏi tôi ? Tên công an thấp giọng:
Người ta nói với
tôi rằng chị thân với Út Cón lắm. Tôi muốn nhờ
chị nói với anh ấy một tiếng để anh ấy
mang nạp cho Nhà Nước số vàng c̣n cất giấu.
Tôi sẽ giữ kín chuyện này và sẽ không báo cáo lên cấp
trên. Tôi muốn giải quyết như trong gia đ́nh thôi.
Chị hiểu không ? Suy nghĩ một lúc, chị
Tư trả lời: Thiệt t́nh với anh:
tôi với Út Cón là bạn nhưng tôi chưa hề biết
chuyện làm ăn trong nhà của ảnh ra làm sao hết. Và
cũng không bao giờ chen vô. Nhưng tôi nhứt quyết với
anh là Út Cón xưa nay không có gian xảo. Bà con ở đây ai
cũng biết hết. Tánh ảnh lại hiền khô và...
hơi nhát nữa. Chắc không dám làm chuyện động
trời như anh nói đâu. Chị Tư mỉm
cười, nhớ lại hồi nhỏ lần đầu
rủ Út Cón vào vườn sau chùa "ăn cáp nhăn", Út
Cón khoát khoát tay từ chối mà mặt mày xanh dờn làm
như đă bị bắt tại trận. Vậy mà đă
mấy mươi năm... Tên công an đưa tay xem đồng
hồ, rồi vừa bước ra cửa vừa nói: Tôi về đây. Xin chị
giúp tôi và nhớ giữ kín chuyện này nhá. Chị Tư làm thinh, nh́n
theo tên công an, rồi sẵn đó nh́n sang nhà bên kia. Bên kia,
chắc vừa ăn ǵ xong nên thấy chú Út đứng xỉa
răng trước cửa tiệm. Đợi tên công an đạp
xe đi một lúc, chị Tư mới bước ra ngoài
cửa ngoắc chú Út. Chú đủng đỉnh đi qua
tay vẫn tiếp tục xỉa răng. Vào nhà, chú hỏi:
Chuyện ǵ vậy bồ?
Chị Tư thấp giọng:
Thằng cha công an nó nghi bồ
c̣n giấu vàng đó. Chú Út cười như mếu:
Giấu khỉ ǵ. Hồi
kiểm kê, họ nói nghe ngon lắm: cứ kê khai đầy
đủ để làm tài liệu thống kê trong mỗi
ngành nghề, chớ c̣n của ai nấy giữ để
tiếp tục hành nghề như cũ, không có ǵ thay đổi.
Vậy rồi... hốt hết của người ta !
Không c̣n tới một chỉ để làm thuốc, lấy
ǵ mà giấu ? Chị Tư suy nghĩ một
lúc mới nói: Chắc có đứa nào
đâm thọc ǵ đây. Gặp bọn này là thứ đa
nghi nên dễ tin lắm. Bồ cũng nên coi chừng đó
nghe ! Thời bây giờ không biết ai là ai hết. Thôi ! Bồ
về đi, kẻo tụi nó thấy, tụi nó nghi bồ
qua... gởi vàng cho tôi giấu th́ oan tôi lắm, nghe bồ. Nói xong, cười
hăng hắc làm chú Út đang rầu thúi ruột cũng bật
cười theo. Làm như chẳng có ǵ phải quan tâm hết.
Tuần lễ sau, vào quá
ngọ sau khi tan chợ, công an đưa bộ đội
tới xét nhà chú Út Cón. Xét kỹ đến nỗi giường
chiếu tủ bàn cà ràng ông Táo, quần áo sách vở ǵ ǵ cũng
lôi tung ra. Họ c̣n bắt thang trèo lên nóc lật một số
ngói trong lúc dưới đất một tốp khác cầm
búa gơ từng viên gạch, từng mảng tường. Thậm
chí c̣n cạy mấy chục viên gạch và đào quật
lên mấy thước đường cống. Bên ngoài hàng xóm bu lại
coi thật đông, kẻ nói vô người nói ra ồn ào
không thua ǵ "trận chiến" ở bên trong. Chị
Tư can thiệp mấy lần với tên công an nhưng
anh ta làm như "không biết chị Tư là ai". Mặt
lạnh như tiền, anh ta chỉ huy cuộc khám xét giống
như đang bươi một đống rác. Cuối
cùng, không t́m thấy ǵ hết, mặt anh ta c̣n lạnh...
hơn tiền. Anh ta ra lịnh bắt chú Út dẫn đi,
để lại người nhà "thím Út và hai con gái"
gào khóc như đám ma và để lại căn nhà bây giờ
thật sự giống như một đống rác ! * * * Chú Út bị giam trên tỉnh.
Ở đâu, người nhà không được biết.
Chỉ biết tin tức qua tên công an lúc này tới lui
thường xuyên nhà thím Út, gọi là "đến
thăm viếng an ủi gia đ́nh và giải thích
đường lối chủ trương rơ rệt sáng suốt
của Đảng và nhà Nước". Lâu lâu, thấy anh
ta dẫn tới một vài anh bộ đội, ngồi lê
la nói chuyện. Chị Tư để ư nhiều lần
như vậy nên phân vân tự hỏi: "Không biết cái
thằng Trời đánh này nó muốn cái ǵ ? Nhà tinh là
đàn bà con gái không...". Người ta bắt
đầu x́ xào bàn tán... ... Chiều hôm đó, tắm
xong, chị Tư vừa chải tóc vừa bước lên
nhà trên. Chợt nh́n thấy thiên hạ bu đông ở nhà
chú Út và có tiếng khóc than trong đó. Chị bước ra
cửa th́ vừa gặp bà Năm Chia. Vội hỏi: Chuyện ǵ ở bển
vậy thím Năm ? Bà Năm Chia nh́n chị
Tư với cặp mắt đỏ hoe, nói bằng một
giọng trống rỗng: Thằng Út chết rồi
! Chị Tư nghe choáng váng
mày mặt, trời đất bỗng tối sầm lại.
Chị t́ người vào khuôn cửa, cái lược sừng
rơi xuống đất. Mắt mở to, ráo hoảnh. Miệng
há ra để thở, nhịp thở dồn dập
như muốn bứt hơi. Làm như bên trong con người
chị chẳng c̣n ǵ hết, chẳng giữ được
ǵ hết. Và cũng không c̣n cảm giác ǵ hết... Một lúc lâu sau, chị lảo
đảo bước vào trong nhà, lần theo mép bộ ván
mà đi, lần theo lu khạp mà đi, lần theo vách mà
đi. Trong đầu loáng thoáng ư nghĩ phải tới một
nơi nào đó kín đáo hơn là ngoài cửa, kín đáo
hơn là trong nhà. Một nơi nào đó chẳng c̣n ai hết.
Một nơi nào đó chẳng có ǵ hết. Một nơi
nào đó chỉ có một ḿnh ḿnh. Một cái kẹt. Một
cái hốc. Không biết để làm ǵ. Chỉ thấy cần
làm như vậy, cần được như vậy. Chẳng
có ǵ rơ rệt hết. Lơ mơ lơ mơ... Cuối cùng, chị bước
vào nhà tắm đóng cửa lại. Gài then xông, chị chỉ
c̣n đủ sức dán lưng vào tường và cảm thấy
hai chân mềm như bún. Thân chị tuột lần xuống
đến khi đụng mặt gạch c̣n ướt
nước tắm khi năy. Chị ngồi bẹp ở
đó mà nghe trong người có cái ǵ đang dồn căng
lên cổ họng từng cơn làm chị đau thắt.
Chị cố nuốt xuống, nhưng càng nuốt,
"cái ǵ đó" càng dồn mạnh lên. Để rồi,
chịu không nổi nữa, chị nấc lên mấy tiếng,
gục đầu xuống mà nghe nước mắt tuôn ra
như suối... Lâu thật lâu sau, chị
Tư đứng lên, vẫn để nguyên quần áo thọc
gáo vào lu múc nước xối ào ào. Nước mát lạnh
làm cho chị tĩnh hẳn. Chị lau ḿnh thật chậm
răi, thay đồ cũng thật chậm răi. Làm như
để có thời gian lấy một quyết định.
Xong chị qua nhà thím Út Cón. Vừa thấy chị
Tư bước vào, thím Út ̣a lên khóc: Tụi nó giết anh Út rồi,
chị Tư ơi... Chị Tư bước
lại ôm thân h́nh mảnh khảnh của thím Út, tay vuốt
vuốt lưng như đang dỗ về người em
gái. Hai đứa con chú Út từ nhà sau chạy ra, vừa
khóc vừa xà vào người chị: Cô Tư ơi... Chị dang tay ôm hết ba
mẹ con, ôm hết những ǵ c̣n lại của Út Cón. Không
c̣n nước mắt để khóc nhưng c̣n đủ tĩnh
táo để nhận thấy rằng từ đây, ḿnh phải
thay Út Cón để bảo vệ gia đ́nh này mặc dù
không ai gởi gắm hết. Nửa khuya đêm đó,
chị Tư trở dậy. Trong bóng tối, chị ṃ mẫm
khoác áo bà ba đen máng sẵn trên cây cột từ đầu
hôm, cập nách con dao phay quấn trong cái bao bố nhỏ
đặt sẵn cạnh chân bộ ván gơ, bước ra
đóng nhẹ cửa lại. Bên ngoài, trời đầy
sao. Gió sông nhè nhẹ mát rượi. Chị bước
đi tự nhiên, chẳng chậm răi chẳng gấp rút.
Giống như đi công chuyện b́nh thường. Ngoài
đường, vắng teo. Mấy con chó hoang ngủ
dưới dăy thớt thịt trong nhà lồng chợ ngóc
đầu lên nh́n, sủa vu vơ mấy tiếng rồi
lại nằm xuống. Chẳng có ǵ phải bận tâm. Nhà thầy giáo Thái nằm
xéo xéo trường tiểu học, Điểm đặc
biệt ở đây là nhà bếp và sàn nước nằm
ngay sân trước bởi v́ ở đó có cái giếng.
Thành ra hồi xưa vào giờ ra chơi, học tṛ hay chạy
qua đó uống nước. Lâu lâu c̣n được thím
giáo cho mấy cái bánh men v́ thím làm bánh men bánh kẹp để
bỏ mối ở xóm dưới đầu trên... Từ
ngày công an dọn về đó, chẳng thấy đứa
nào chạy qua hết. Chị Tư bước
vào hàng ba, thấy trong nhà có ánh đèn. Nghĩ: "Chắc
thằng Trời đánh đó đang làm báo cáo. Không biết
nó đang muốn hại ai nữa đây ?". Chị
đưa tay gơ cửa. Có tiếng người hỏi: Ai đấy ? Chị Tư trả lời
như không trả lời: Tôi ! Nghe giọng đàn bà, tên
công an yên chí: Chờ tí ! Có tiếng khóa lọc cọc
rồi cánh cửa mở ra. Ánh đèn dầu từ bên trong
hắt lên người chị Tư, tuy không sáng lắm
nhưng vẫn thấy rơ nét trầm tĩnh tự nhiên trên
gương mặt tṛn trịa. Ở đó vừa hiện
lên một nụ cười mà tên công an giàu tưởng
tượng cho là "đầy nhiệt t́nh cách mạng".
Anh ta bước ra đảo mắt nh́n quanh rồi mới
mời: Vào đi ! Tiếng "đi" vừa
dứt là chị Tư đă bổ con dao phay vào ngay giữa
đầu, nhanh gọn và chính xác như chị bổ cái
đầu cá. Xong, chị bước vào thổi tắt cây
đèn dầu rồi ra sàn nước rửa ráy tay chân ḿnh
mẫy và con dao. Trước khi ra về chị nh́n lại
hàng ba: trong bóng tối chị vẫn thấy được
thằng "Trời đánh" nằm một đống,
không nhúc nhích. Hôm sau, cả làng đều
biết tin tên công an bị chém. Vậy là bàn tán xôn xao...
"Nhờ mấy con chó bu lại giành giựt ở hàng ba
nhà thầy giáo Thái người ta mới để ư. Chớ
không th́ cầu tới trưa trờ mới hay"...
"Thiên hạ đồn tại thằng chả lấy vợ
người ta"... "Ông Sáu Lịch dạy vơ ở xóm
Ḷ Heo quả quyết rằng thằng cha nào chém nhứt
định phải có nghề. Chớ người thường
th́ sức mấy mà chém ngọt như vậy"... "Ai
mà giỏi vậy không biết ?"... "C̣n gan nữa chớ
! Chém cách mạng mà...". Có người vốn đă thù
ghét sẵn trong ḷng, buột miệng nói: "Chớ phải
là tôi, tôi chặt cha nó ra làm ba khúc cho nó đáng !"... Trong làng, chỉ có một
người biết ai đă chém tên công an. Người
đó là con Lia bán cá hồi trước "cách mạng".
Nhưng nó đă bỏ làng trốn mất ngay ngày hôm đó,
bỏ lại mấy bộ đồ màu cỏ úa và cái nón
cối. Chánh quyền nghi ngay cho nó. Vậy rồi họp
hành liên miên để xem có "phát hiện" ǵ thêm không bởi
v́ "tên phản động ác ôn do ngụy cài vào hàng ngủ
của ta từ ngày cách mạng thành công, nhất định
phải để lại nhiều dấu vết hay bè lũ
của nó, ta cần phải nâng cao cảnh giác!". Trưa đó, nằm
đong đưa trên vơng, chị Tư suy nghĩ viễn
vong rồi đưa bàn tay trái lên nh́n chiếc nhẫn bạc
của Út Cón chạm trổ cho hồi đó, thuở Út Cón
chưa vợ, thuở hai người c̣n thật "bồ"
với nhau... Chị bồi hồi nhận thấy tiếng
"bồ" quen thuộc, từ nay sẽ không c̣n dùng tới
nữa. Tiếng "bồ" gọi nhau thuở nhỏ.
Tiếng "bồ" nhè nhẹ êm êm của tuổi dậy
th́. Tiếng "bồ" mang mểng yêu thương giấu
kín, về sau, khi chẳng thành duyên chẳng thành nợ. Và
tiếng "bồ" già dặn, đậm đà của
bây giờ, mới đây, trước khi Út Cón bị bắt.
Tiếng "bồ" của mấy chục năm
đó, c̣n ai để mà gọi, từ nay ? Chị bỗng
thèm hát lại câu vọng cổ. Lần này, chị vô "Bồ
ơi...". Tiếng "ơi" bị ngẹn ngang. Chị
ngừng ở đó một lúc để kềm xúc động.
Rồi chị "bắt" trở lại, nhanh nhanh dồn
dập chớ không ngân nga sợ trào ḷng cắt đôi câu
hát: "Bồ ơi ! Cái mối t́nh của em đối với
bồ... nó tợ như trời cao biển rộng?...ư...sông...à
...dài". Tiếng "dài" không c̣n "ngọt"
như xưa. Tiếng "dài" bị đứt khoảng.
Giống như khúc đuôi c̣n nằm kẹt đâu trong
ḷng. Chị vói tay lên đầu vơng rút cái khăn lông đắp
vội lên mặt, bởi v́ chị vừa nghe mí mắt
ḿnh mọng nước ! Từ đó chị Tư
Ù thôi ca vọng cổ. Tiểu Tử
. |